Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 36

Tổng truy cập: 1378890

THỐNG HỐI

Thống hối - R. Gutzwiller

Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu sách đó còn tăng thêm và đưa đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống hối thực tình.

Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa ra lời kêu gọi đó và soi sáng bằng một dụ ngôn.

1. Bài học của các biến cố

Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ, Philatô sai quân tàn sát một nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan người họ mưu tâm phản loạn. Tại Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.

Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp đổ chôn sống mười tám mạng. Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt Thiên Chúa ra để trừng trị tội lỗi của các nạn nhân.

Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó. Những người vong mạng đó không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không đồng nghĩa với hình phạt mà là những lời cảnh cáo: 'Nếu các các anh các chị không ăn năn hối cải, thì các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy'. Lời quả quyết nghiêm khắc ấy được nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy tàn của Giêrusalem đang gần đến.

Đối với người đương thời vừa nhằm vào ngày thế mạt, một sự kiện mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận mạng sau cùng của mỗi thụ tạo. Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải huyền) đều là những dấu cảnh cáo của Thiên Chúa.

Con người không thể sống quá an tâm trên đường đời và sống thản nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ nào đang đe doạ mình và nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình là lúc nào. Cho nên lợi dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.

Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết phó thác vào ân sủng vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải nại đến ân sủng của Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con người trong cơn nguy biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của Noe trong cơn hồng thuỷ của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai hoạ; cho nên họ ít quan tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó. Tuy nhiên, mỗi người không thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của Chúa được trình bày một cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội được.

2. Dụ ngôn

Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết của thống hối qua dụ ngôn cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian nữa. Nếu nó không có ích, người ta sẽ chặt đi

Dụ ngôn này hợp với tình trạng của Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ, đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho họ luật pháp, tiên tri, giao ước, đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải ngay, số phận của họ sẽ bị định đoạt.

Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta. Chúng ta có Giáo Hội, các bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa hiện diện ngày đêm. Vì thế không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được chăm lo cách quá ư trọng hậu...

Nhưng con người cũng phải đóng góp về phía mình. Con người không thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa vào đám quần chúng để sống tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy lòng thống hối chân thành để hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp đó, họ mới được ơn trợ giúp.

Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh mạng, cũng không phải là bảo vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo và tha thiết kêu gọi thống hối. Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con đường suy vong.

 

18. Lời mời gọi sám hối- Lm. Phạm Thanh Liêm

Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.

Thiên Chúa giải phóng dân Người

Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.

Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.

Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người

Người đời cho rằng những người bị tai hoạ là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Yêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Yêsu nói: "Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy". Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.

Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.

Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.

Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc

Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành "tấm gương tầy liếp" (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.

Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Yêsu nơi bí tích Thánh Thể.

Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?

2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.

3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?

 

19. Đổi mới cách nhìn.

Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm, ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.

Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:

- Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?

Cái ống kính viễn vọng trong câu chuyện vừa nghe là một hình ảnh tượng trưng cho cách chúng ta nhìn đời và nhìn người.

Thực vậy, nhiều khi cái ống kính ấy có vướng mắc những sợi chỉ mong manh, có nghĩa là lắm lúc chúng ta đã nhìn đời và nhìn người bằng cặp mắt thiển cận. Chúng ta muốn suy bụng ta ra bụng người, chúng ta muốn lấy lòng mình làm thước đo người khác. Chúng ta muốn cư xử rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với người khác. Chúng ta muốn lấy cái rơm trong mắt người khác mà không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.

Đây cũng là trường hợp đã xảy ra cho hai biến cố mà Chúa Giêsu đã nhắm đến. Đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp, dân Do thái đã mau mắn đi tới kết luận:

- Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt.

Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người.

Đúng thế, thay vì đánh giá người khác, chúng ta phải đánh giá chính bản thân chúng ta. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân chúng ta, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa như lời Ngài đã phán:

- Nếu các ngươi không chịu ăn năn, thì các ngươi cũng sẽ chết thê thảm như vậy.

Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: điều cần thiết là phải thay đổi cách nhìn, thay đổi cách đánh giá. Hãy nhìn vào bản thân mình, chứ đừng nhìn vào người khác. Hãy nghiêm khắc với bản thân mình chứ đừng nghiêm khắc với người khác. Hãy biết đấm ngực mình mà rằng:

- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.

Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng:

- Lỗi tại anh, tại chị, tại ông, tại bà mọi đàng.

Có như thế, những biến cố xảy đến trong cuộc đời mới thực sự đem lại lợi ích, bởi vì những biến cố ấy chính là tiếng chuông cảnh tỉnh thúc đẩy chúng ta thoát ra khỏi tình trạng tội lỗi. Những biến cố ấy chính là lời Chúa mời gọi chúng ta vươn lên, thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời, để trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.

 

20. Ăn năn sám hối

Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn "cây vả" để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.

Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong trào "cứu thế" chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.

Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: "Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy". Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.

Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn "cây vả" để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.

Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.

Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ "đâm lao theo lao". Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: "Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình". Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là "Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó", "Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy". Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp... nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?

Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.

 

21. Suy niệm của JKN.

ĐỪNG ĐOÁN XÉT NGƯỜI KHÁC, HÃY TỰ XÉT CHÍNH MÌNH

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao có người cho rằng những người bị giết hay bị chết trong bài Tin Mừng là những kẻ tội lỗi? Đức Giêsu có quan niệm như thế không? Ngài có đồng ý với việc xét đoán người khác kiểu đó không? Lập trường Ngài thế nào?

2. Áp dụng dụ ngôn cây vả vào đời sống người Kitô hữu hôm nay, thì hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta là gì? Là việc tham dự những nghi thức tôn giáo cho đầy đủ, hay là tình thương phải có đối với nhau?

Suy tư gợi ý:

1. Đừng xét lỗi kẻ khác, hãy xét lỗi chính mình

Thời Đức Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy chống lại chính quyền Rôma và đã bị giết. Một số nhà giải kinh cho rằng những người bị Philatô giết ở đây cũng vì lý do ấy. Mặc dù không ủng hộ chính quyền Rôma, người Pharisêu phản đối việc dùng vũ lực chống lại chính quyền. Vì thế, theo quan điểm của họ, những người bị giết này là đáng tội chết. Còn nhóm Dêlốt, một đảng chính trị chuyên khủng bố người Rôma, chủ trương bất hợp tác với chính quyền đế quốc. Vì thế, khi thấy 18 người Do Thái đào đường dẫn nước thuê cho người Rôma và bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, họ cũng kết án những nạn nhân này là đáng tội chết.

Thấy họ thích xét đoán và kết án người khác như vậy, Đức Giêsu lên tiếng phản đối. Theo Ngài, khi ta kết án người khác, thì chính ta lại là kẻ đáng bị kết án hơn cả: «Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1; x. Lc 6,37). Ngài muốn đừng ai xét đoán ai, mà mỗi người hãy tự xét về lầm lỗi của chính mình, đồng thời sám hối và sửa đổi mình trước đã. Vì thói đời thường «thấy cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy» (Mt 7,3). Vả lại, mỗi người một hoàn cảnh, mình không phải là Thiên Chúa nên không thể biết rõ hoàn cảnh phạm lỗi của người khác để có thể kết án họ. Càng kết án người khác, ta càng bị Thiên Chúa kết án: «Anh em xét đoán (người khác) thế nào, Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Anh em đong (cho người khác) bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy để đong lại cho anh em» (Mt 7,2). Vậy, ta đừng dại gì mà xét đoán người khác?

Khi người ta dẫn một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến để tố cáo với Đức Giêsu, thì thái độ của Ngài là không kết án chị ta, mà mời gọi mọi người hãy xét tội lỗi của bản thân mình trước đã: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi!» (Ga 8,7). Khi được mời gọi xét lại chính mình, những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình ấy đã từ từ «bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi» (Ga 8,9). Tại sao vậy? Vì họ vẫn còn liêm sỉ để nhận ra chính mình cũng chẳng phải vô tội! Nếu ta có thái độ «tiên trách kỷ, hậu trách nhân», hay «tiên xét kỷ, hậu xét nhân», thì ta sẽ không bao giờ dám kết tội ai. Vì khi xét mình, ta sẽ luôn luôn nhận ra mình cũng có lỗi. Do đó, kẻ hay kết án người khác chỉ tự chứng tỏ rằng mình rất ít khi xét lỗi của mình. Vì một khi đã xét lỗi mình thì ta sẽ không dám kết án ai.

Rất nhiều lần khi thấy con cái mình phạm một lỗi nặng, tôi muốn nổi trận lôi đình với chúng, dự định la mắng chúng một trận nên thân. Nhưng khi bỗng nhận ra mình ngày xưa cũng phạm những lỗi y hệt chúng ngày nay, thì tôi hết giận ngay. Và tôi chỉ trách mắng chúng một cách nhẹ nhàng; nhờ vậy, việc giáo dục chúng có kết quả hơn. Nhiều lần ra đường bị một ai đó chạy ẩu làm tôi bị té hoặc bị thương, tôi giận muốn điên lên. Nhưng khi nhận ra chính mình cũng đã từng làm cho người khác khốn khổ y như vậy, tôi bèn mỉm cười và cơn giận lập tức tiêu tan.

2. Hãy tự xét lỗi mình và cải thiện theo đúng đường lối Chúa

Ta chỉ có trách nhiệm xét lỗi của ta, chứ không có trách nhiệm xét lỗi người khác: «Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?» (Gc 4,12). Nếu thấy mình có lỗi thì ta phải sám hối và tự sửa chữa, nếu không, e rằng ta sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt: «Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết y như vậy».

Rất nhiều người cảm thấy mình vô tội, không cần sám hối, vì thấy rằng mình chẳng bao giờ làm điều ác cho ai. Mình vẫn được mọi người cho là ngoan đạo: vẫn đi lễ, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, vẫn đóng góp vào nhà thờ... Nhưng tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23). Lúc ấy họ sẽ phân bua: «Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chúa sẽ nói lại: «Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống...» (Mt 25,41-44).

Quả thật, rất nhiều Kitô hữu không biết được cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu. Họ tưởng nằm ở trong các nghi thức tôn giáo, trong việc lễ lạy, rước sách. Nhưng Đức Giêsu đã nói thật rõ ràng: «Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7), và «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23) chứ không phải mấy chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ, thậm chí cả việc dâng lễ vật lên Thiên Chúa nữa. Thật vậy, thánh Phaolô nói: «Những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện» (Dt 9,9). Điều làm cho con người nên hoàn thiện và nên giống Thiên Chúa là tình thương, vì tình thương chính là bản chất của Thiên Chúa (x. 1Ga 4,8.16).

Nhiều người không hiểu cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu, nên họ hay lên án những ai không giữ những luật lệ giống như họ. Họ hành xử không khác gì những người Pharisêu xưa lên án Đức Giêsu và các tông đồ: nào là vi phạm ngày sabát (chữa bệnh, bứt bông lúa mì...), nào là không giữ luật lệ tiền nhân (ăn không rửa tay, nhậu nhẹt với phường tội lỗi...). Nhưng Đức Giêsu trả lời họ: «Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội» (Mt 12,7). Trước mặt Đức Giêsu, những người Pharisêu này mới chính là kẻ có tội. Nhưng tiếc thay cho họ: tội mình thì không thấy, mà lại thấy tội của những kẻ vô tội! Thời nay, nhiều Kitô hữu trách cứ những người khác là khô khan, nguội lạnh chỉ vì những người này không sốt sắng giữ đạo theo kiểu của họ, đang khi những người bị trách cứ này lại giữ luật yêu thương của Đức Giêsu gấp nhiều lần họ. Thiết tưởng câu của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đáng cho họ suy nghĩ: «Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). 3. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ con người hối cải

Điều Thiên Chúa mong đợi nơi con người là sự hối cải. Hối cải là quay trở về với Ngài: quan niệm giống như Ngài, nói và hành động theo gương Ngài. Theo quan niệm của Ngài, yêu thương là điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất, nền tảng nhất. Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm khác với Ngài, họ coi chuyện yêu thương là thứ yếu, mà coi những nghi thức tôn giáo mới là quan trọng. Họ đã đi vào đúng vết xe đã đổ của các kinh sư, của giới lãnh đạo Do Thái giáo xưa.

Đức Giêsu đến trần gian đã 2000 năm nay để chỉnh đốn lại quan niệm sai lầm xưa. Nhưng cho đến hôm nay, biết bao kẻ mang danh theo Đức Giêsu vẫn coi thường việc chỉnh đốn đó, vẫn tiếp tục đi theo con đường Ngài đã đả phá từ thời đó. Ngài thì đặt nặng quan hệ yêu thương giữa con người với con người, còn họ vẫn tiếp tục coi trọng những nghi thức tôn giáo hơn quan hệ đó. Ngài nói: «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 5,23-24). Hãy xem Ngài quan trọng hoá quan hệ yêu thương giữa con người với con người hơn các nghi thức tế tự như thế nào! Nhưng rất nhiều Kitô hữu, kể cả những người có trách nhiệm dạy dỗ Kitô hữu, đã quan trọng hoá theo chiều ngược hẳn lại với Ngài!

Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không ra trái trong bài Tin Mừng là một lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa kết trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta: «Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 3,10; Lc 3,9). Các Kitô hữu quan niệm không đúng một phần khá quan trọng là do những người có trách nhiệm giáo dục họ đã không chỉ dạy họ cho đúng, hoặc đã không nhấn mạnh đủ điều nào là điều Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên tất cả những điều khác.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu kêu gọi sám hối, nếu không sẽ bị trừng phạt tất cả. Nhưng chúng con phải sám hối điều gì đây? Chúng con phải thay đổi điều gì trước tiên? Hoa trái mà Cha mong mỏi nơi chúng con là gì? Đọc kỹ Tin Mừng, chúng con thấy hoa trái mà Cha mong đợi nơi chúng con chính là tình thương. Nhưng chúng con lại quan trọng hoá chuyện khác. Chúng con lại đi đúng vào vết xe đã đổ của người Pharisêu xưa, là quan trọng hoá các nghi thức tôn giáo mà coi thường luật yêu thương của Cha. Xin giúp chúng con sửa đổi lại quan niệm cho đúng.

 

22. Chú giải của Fiches Dominicales

HÃY HOÁN CẢI VÀ ĐI THEO CON ĐƯỜNG TỰ DO

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Hoán cải là khẩn cấp.

Sau cuộc hiển dung trên núi, Đức Giêsu quả quyết lên đường đi Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành ", cuộc "ra đi " của Người. Người khuyên đám đông hãy biết phân định những dấu chỉ của Nước Trời và hãy đón nhận Tin Mừng đừng chậm trễ.

Một sự kiện được các thính giả trình lên: Philatô tàn sát mấy người xứ Galilê tại Đền thờ các sử gia xác nhận ông đã dùng những cực hình tàn bạo - và lấy máu của họ hoà vào máu các lễ vật của họ. Phả i chăn ng họ là " những người tội lỗi hơn những người Galilê khác?".

Thay vì trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu dẫn sang một sự kiện khác đã diễn ra tại Giêrusalem: tháp Siloê đổ đè chết 18 người. người kết luận bằng cách nhắc lại lời cảnh báo nghiêm trọng: "Ta bảo cho các ngươi biết: nếu các ngươi không hoán cải, các ngươi cũng sẽ chết như họ ".

Đứng trước những bất hạnh của người khác, ta tự nhiên tìm xem đâu là lỗi lầm của nạn nhân. Họ đã chết như thế, có lẽ đó là hình phạt do tội lỗi của họ. Và ta tự cho mình là công chính vì ta đã không bị nạn.

Đức Giêsu khuyên họ đừng nên tìm giải thích những cái chết tức tưởi tốt hơn hãy năng nhận biết mình tội lỗi và mau mắn hối cải.

H. Cousin chú giải: "Hai kiểu chết khốc liệt nói trên phải là lời cảnh báo cho những ai không mau mắn thay đổi đời sống, lượng xét lại ý kiến và những hoài vọng lầm lạc của họ. Cũng như từ đầu đã nói, hai thảm kịch kia diễn ra không có nghĩa là các nạn nhân đã phạm phải một tội nặng nề nào, thì việc không gặp hoạn nạn cũng không phải là dấu chỉ về sự vô tội của những "người sống sót". Mọi người đều là tội nhân là cần hoán cải trước khi bị Thiên Chúa phán xét. Trước khi gặp tai nạn, khi cuộc đời xem ra tươi sáng, đã cần phải sám hối và đón nhận Lời cứu độ của Thiên Chúa do Đức Giêsu loan báo. Để sau, e rằng quá muộn.

2.... Và sinh hoa kết quả như Chúa mong muốn.

Tiếp liền theo sau là dụ ngôn cây vả không trái. Dụ ngôn này làm dịu lại những lời lẽ nghiêm khắc của Đức Giêsu.

Người thợ làm vườn mà dụ ngôn trình bày cho ta luôn hy vọng rằng cây vả của ông, dù vẫn chưa ra trái, sẽ có ngày sinh hoa kết quả. Ông thuyết phục người chủ vườn hãy hoãn lại quyết định đốn cái cây ăn hại đất một cách vô ích ấy; và ông đã nhận được một án treo: " Xin hãy để nó sống thêm năm nay nữa... Biết đâu nó sẽ ra trái? nếu không, lúc ấy ông hãy đốn nó đi".

Thiên Chúa là như thế. Tha thiết mong người ta hoán cải đừng chậm trễ và hãy đem tình yêu đáp lại tình yêu đi bước trước của Người. Thiên Chúa của Đức Giêsu nhẫn nại vô biên đối với người tội lỗi. Người chấp thuận cho họ một sự trì hoãn ân huệ. Người không tuyệt vọng vì bất kỳ ai. Ta vẫn thường hát rằng: " Với Chúa chẳng có ai là quá xa,... Với Chúa chẳng có gì hư mất... Vì Chúa chẳng có gì chấm dứt " (phiếu L.82, chẳng có đứa con hoang đàng nào mà không được tha thứ").

H. Cousin kết luận: "Nếu giờ phán vét chưa đến ngay, đó là vì Thiên Chúa ban cho ta một ân huệ sau cùng để ta hoán cải chứ không phải là Người đã chấp thuận các hành vi của ta... cây vả không trái chưa bị nhổ ngay là do lòng nhân hậu khôn tả, tuy nhiên nó vẫn còn bị đe doạ phải chết nếu năm sau vẫn không ra trái... Lời khiển trách cây vả vì không ra trái - là lời cảnh báo cho thính giả của Đức Giêsu: họ không được trì hoãn việc chính yếu đến ngày mai là phải quyết định sinh hoa kết quả cho Chúa ngay" (Sđd, trg 192).

 

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Một tình yêu vừa nhẫn nại vừa đòi hỏi

Không báo, không đài, chẳng có ti vi, mà biến cố vẫn nhanh chóng loan truyền khắp xứ sở. Lợi dụng lúc dân tụ tập trong đền thờ, bộ hạ của Philatô đã vét được một mẻ lưới vừa gọn ghẽ vừa dễ dàng, rồi họ mau chóng biến thành một cuộc thảm sát. Nạn nhân là những ai? Những người Galilê vốn có tiếng là có tinh thần dân tộc mạnh mẽ và bị chính quyền thống trị Rôma coi như những hạt nhân cách mạng. Nhưng họ đã làm gì xúc phạm đến Thiên Chúa đến nỗi phải chịu một tai hoạ như thế?

Câu hỏi gây lúng túng, nhưng đó là câu hỏi cần đặt ra cho vị tiên tri mới mà giáo lý mới lạ của Người đã lôi cuốn biết bao đám đông. Mỗi người đều có câu trả lời sẵn phù hợp với truyền thống xưa cũ. Thiên Chúa chúc lành và thưởng công những người công chính. Vì Người trừng phạt kẻ tội lỗi. Thành công là giàu sang là những dấu chỉ rõ ràng của sự ưu ái của Thiên Chúa. Thất bại vì nghèo khổ đúng là phần thưởng cho những kẻ tội lỗi.

Đức Giêsu đã trả lời cho những kẻ đến hỏi người: Còn anh em, anh em nghĩ rằng anh em là thánh, là những người được Chúa Quan phòng sủng ái vì anh em không bị nạn ư? Tất cả anh em đều đáng bị kết án vì có tội. Đừng lừa dối mình về ý nghĩa của các biến cố và nội dung của các dấu chỉ'? Thiên Chúa không phải là một "ông chủ " khắc nghiệt và nóng vội trừng phạt tức khắc là từ chối khoan giãn. Hình phạt và phần thưởng, sẽ có, nhưng không phải theo cái lối mau chóng tức thờ i ấy.

Đừng gán ghép bất hạnh với tội lỗi, thành công với Chúa quan phòng. Những kẻ thoát nạn không phải là những người

được khen thưởng, cũng không phải là những người khốn khổ vì có tội. Chẳng có ai vô tội. Tất cả mọi người đều được mời gọi hoán cải và sinh hoa kết quả. Đó mới là chính vấn đề.

Thiên Chúa là người thợ làm vườn nho đã bài bác lý lẽ của người chủ vườn và đã đề nghị một khoan giãn ân huệ mới cho cây vả. Thật là một Thiên Chúa nhẫn nại.

Nhẫn nại nhưng lại rất đòi hỏi, phối kết hài hoà sức mạnh và sự dịu dàng, công lý và xót thương, tình yêu con người và cương quyết chống lại điều ác.

2. Tính chất nghiêm trọng của những chọn lựa của ta

"Nếu các ngươi không hoán cải, tất cả các ngươi sẽ phải chết". Ta những muốn xoá đi những câu Tin Mừng như thế. Nhưng làm sao thoát khỏi lời loan báo về cuộc "phán xét ": những chọn lựa của ta tự nó mang một yếu tố quyết định, đó là vấn đề sinh tử "Sa ngã.. bị loại trừ... chết").

Tin Mừng giúp ta ý thức về tính chất nghiêm trọng của những lựa chọn và do đó của tự do của ta.

Chọn được sống tức là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc Xuất hành, Đấng tự xưng: " Ta là ". Chọn sự sống hơn là những lối sống dẫn đến sự chết, là bước theo Đức Giêsu trên con đường Phục sinh. Hoán cải là chọn sự sống. Nhưng chẳng phải một lần mà xong. Đó là một hành trình kiên trì với Đức Kitô, có Thánh Thể nuôi dưỡng.

3. Ngày mai sẽ là quá trễ.

(Mgr. Daloz, trong "Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người" DDB, trg 109).

Đoạn văn ta đang đọc khai mở cho các môn đệ và cho đám đông vây quanh Đức Giêsu ý nghĩa của thời gian hiện tại: Đây là thời khẩn cấp phải hoán cải. Luca luôn nhấn mạnh đến tính chất cấp thiết này: một thời gian trì hoãn đã ban cho ta, đừng để nó trôi qua mất. Đây là lúc ta phải phân định những dấu hiệu tiên báo về một tương lai gần đến, vì ta có thể đoán được ngày mai thời tiết ra sao: "Thời gian hiện tại, làm sao ngươi không nhận biết?". Đó là sắp xếp trước khi ra hầu toà, lúc ta còn có thể thay đổi đời sống trước khi chịu số phận như những người Galilê mà Philatô đã tàn sát.

Đây là năm trì hoãn mà người làm vườn ban cho cây vả, để nó mang lại những hoa trái mà ông chủ đang mong chờ... đừng trì hoãn việc hoán cải đến ngày mai. Thời giờ ngắn ngủi lắm, đây là lần gia hạn cuối cùng. Ngày mai sẽ là quá trễ. Ta có cơ may được nghe những lời cảnh báo này. Ngày hôm nay là một ngày hồng ân của Thiên Chúa, ta không được bỏ lỡ. Đức Giêsu mời gọi ta hãy phân định: ta qui hướng về một tương lai mà ta có thể linh cảm thấy. Tin là bước đi trong đêm tối, nhưng đức tin hướng ánh mắt ta về một thế giới tương lai là hé lộ cho ta thấy tính cách khẩn cấp của việc hoán cải.

 

23. Chú giải của Noel Quesson

Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.

Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.

Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.

Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.

Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: "Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế" hay là "chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?".

Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh". Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!

Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.

Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. "Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về "những người khác". Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. "Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.

Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc "hoán cải", của chính con.

Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.

Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.

Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn... Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị "trừng phạt" bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: "Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế".

Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là "Nguyên nhân đệ nhất" như' các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những "nguyên nhân đệ nhị", mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.

Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.

Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: "Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi". Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. "Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết": Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta "khám phá": Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một "mạc khải", một vấn đề đức tin.

Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.

Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải...

Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói "triệt' để" của Luca "Các ông sẽ chết hết". Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: "Nếu các ông không ăn năn hối cải". Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện "mạc khải": Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.

Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.

Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: 'Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?

Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài "Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là "một quả". Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả... Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích ". Trái lại, Đức Giêsu nói: "Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!" Người không những lên án "trái thối" mà còn lên án cả tình trạng "không sinh trái".

Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi".

Người "làm vườn" đầy tình thương với "cây nho" của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: "Nếu không ông sẽ chặt nó". Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.

home Mục lục Lưu trữ