Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 64
Tổng truy cập: 1377160
TIẾNG KÊU TRONG HOANG ĐỊA
Tiếng kêu trong hoang mạc
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Mẹ Têrêsa có dịp qua Việt Nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ. Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình. Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ. Khi đến Việt Nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương. Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi). Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại. Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.
Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3. Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy. Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa,” với một thái độ tự nhiên, giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về. Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút, trước khi bắt đầu câu chuyện. Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về. Thái độ Mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ. Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ. Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một. Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai. Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình. Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị… (Trần Duy Nhiên, Hình ảnh Mẹ Têrêsa đối với tôi)
Bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), hay Chúa Nhật Hồng, vì Thánh Gioan Tiền Hô đem niềm vui cứu độ đến nhân loại. Ngài là chứng nhân của Ánh Sáng, cũng như Mẹ Têrêsa gần đây là chứng nhân hiện đại của Đức Giêsu.
Chứng nhân Gioan đã làm gì để thuyết phục dân chúng tuôn đến nghe rao giảng và ăn năn sám hối? Nếu không phải là ngài đã dám nói thật, sống thật và chết cho sự thật.
Nói thật
Thánh Gioan liên tiếp ba lần thưa “Không,” khi các tư tế và các thầy Lêvi xét hỏi, điều tra về nhân thân. Ngài quyết liệt phủ nhận những danh xưng ngộ nhận. Nói thẳng, nói thật, nói đúng lúc, nói chính xác, là đức tính cần thiết và tiên quyết của người chứng. Danh chính, ngôn thuận, sự tất thành.
Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải nói thật, huống chi chứng nhân: “Có” thì nói “có”, “không” thì nói “không.” Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5, 37) Thánh Giacôbê lập lại lời Chúa dạy và khuyên nhủ: “Nhưng hễ “có” thì phải nói “có’, “không” thì phải nói “không,” như thế anh em sẽ không bị xét xử.” (Gc 5, 12)
Chứng nhân Gioan không hề lợi khẩu, bẻo mép, xảo ngôn, ngụy biện hòng mê hoặc, hay mị dân như xưa nay người ta quen ứng xử. Ngài không bạc nhược, nể nang, sợ hãi, cũng chẳng ấm ớ hội tề, rằng, thì, là, mà, cũng như không hề giấu diếm nỗi bất bình, khi chỉ tận tay, day tận mặt nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến với ngài, chịu phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7)
Sống thật
Ngôn hành hợp nhất, nói sao làm thế, chứng nhân Gioan sống hoàn toàn chay tịnh, đơn giản từ cái ăn đến cái mặc, vô gia cư, vô sản chuyên chính nghiêm minh, chẳng hề môi mép, vờ vịt, giả vờ nghèo khó.“Rượu lạt, rượu nồng em sẽ đều không uống.” (Lc 1, 17) Nếp sống thanh bần tận cùng đã lay động lòng người, cảm hóa, thuyết phục mọi người vội vã tìm đến nghe giảng dạy, ăn năn sám hối và chịu phép rửa.
Khổ tu với thái độ khiêm nhường, hãm mình, chuyên tâm cầu nguyện và thực hiện hoàn hảo Thánh Ý Chúa, Thánh Gioan chỉ dám đơn sơ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đánh động lòng người quay về đường ngay nẻo chính. Đức Giêsu ngợi khen thánh Gioan: “Tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa….Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan.” (Lc 7, 26-28)
Chết cho Sự Thật
Không những sống theo lời chứng, thánh Gioan còn sẵn sàng chịu chết cho Sự Thật, khi công khai can ngăn vua Hêrôđê lấy chị dâu làm vợ. “Ngài không được phép lấy bà ấy.” (Mt 14, 4) Không hề run sợ trước bạo quyền, Ngài không hèn nhác tránh né nhiệm vụ ngôn sứ. Cũng chẳng làm ngơ, giả mù sa mưa trước gương mù, gương xấu của nhà lãnh đạo, sẵn sàng đánh cược mạng sống để bảo vệ luân lý, đạo đức và Sự Thật.
Thời nay càng khẩn thiết cần đến chứng nhân trung tín, nhiệt thành và dám hy sinh trọn vẹn, như Thánh Gioan Tiền Hô. ĐTC Phaolô VI đã thao thức trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi: “Ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy.” Bởi vì Giáo Hội quá dư thừa thầy dạy, thầy giảng, thầy lý thuyết, mà quá thiếu thốn chứng nhân hợp nhất ngôn hành.
“Thủy thủ lặn dưới đáy biển, phi hành gia bay trên phi thuyền đều dấn thân mạo hiểm vì khoa học. Ngày nào con bỏ tất cả và bất cứ giây phút nào cũng sẵn sàng liều mình vì Chúa, người ta mới tin đời nội tâm con.” (Đường Hy Vọng, số 84)
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi, cải hóa tâm hồn chúng con, loại bỏ tất cả những gì thuộc về cái tôi, bản ngã, tất cả những đam mê thế gian, trần tục, của cải, danh vọng, chức tước, quyền lực, ham muốn, để xứng đáng đón Chúa ngự vào.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương khiêm nhường và dấn thân xả kỷ, xin giúp chúng con thoát tục tòng thiên, biết ưu tiên chọn Chúa, theo Chúa và sống Lời Chúa luôn. Amen.
57. Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn
ĐỪNG DẬP TẮT THÁNH THẦN
Ai đã từng vuợt biển và sống qua các trại tỵ nạn hầu như đều chung cảm nghĩ rằng đó là những kỷ niệm không thể phai mờ.
Nhìn đại dương bao la cuồng nộ sóng rồi nhìn chiếc thuyền chài mỏng mãnh mong manh, ước vọng đến bờ bến bình an đã gần như tuyệt vọng. Và vì đã có thể chạm sờ cái chết trong gang tấc, ước vọng của mỗi thuyền nhân là khi thuyền cập bến tự do, sẽ gióng lên tiếng chuông sự thật về một trại tập trung mang hai tiếng Việt Nam kinh khiếp gấp ngàn lần trại tù Auschwitz.
Nhưng ngoài đại đa số thuyền nhân đã can đảm trở thành chứng nhân cho sự thật -những chứng nhân đã có lần đuợc gọi là “tiếng nói của luơng tâm nhân loại,” một thiểu số rất nhỏ nhoi, oái ăm thay, đã rất ngại ngùng, Chẳng những không dám nói lên sự thật về một chế độ rất hà khắc rất phi nhân, họ một sớm một chiều là nô lệ cho những giả trá từ vui thưởng vui phạt đến rất đê hèn.
Man khai hộ tịch là chuyện vẫn thuờng xảy ra nơi văn phòng Cao Uy. Khai tuổi thêm, sụt tuổi xuống; gia đình đùm đề vẫn an nhiên gạch vào ô đề chữ ‘single’, ôi thôi, chuyện dài tỵ nạn… Nhưng có một kiểu man khai đến rợn người đó là man khai tôn giáo: giả sơ; giả thầy; giả đến cả cha!!!
Thay vì được xức dầu và sai đi đem “Tin Mừng cho người nghèo khó,” họ tự xức ‘Channel 5’ rồi bịp bợm làm giàu có cho chính bản thân mình. Thay vì “băng bó những tâm hồn đau thương,” họ đã gây bao đau thương đến nhiều những tâm hồn. Thay vì khiêm cung cởi giây dày cho Con Thiên Chúa, họ huyên hoang khoác lác đòi buộc Con Thiên Chúa hằn tấm lưng sâu cởi giây dày cho họ. Không làm chứng về sự sáng mà tự vỗ ngực xưng mình là sự sáng, những con gián ngày thời đại kia đã ít nhiều làm nhòe đi trang sử son của dòng giống Tiên Rồng.
Phải chi họ suy ngẫm về Gioan Tẩy Giả trước khi thuyền rời bến! Gioan đã có thể dễ dàng man khai mình là tiên tri Êlia. Gioan cũng đã có thể lừa bịp cả toàn dân
Do Thái tuyên bố mình chính là Đấng KiTô. Nhưng không! Gioan ví mình chỉ như “tiếng kêu trong hoang địa” đi trước dọn đuờng. Hơn ai hết, Gioan hiểu rằng con người chỉ là một tạo vật bé hèn và con người phải làm tất cả những gì mình có thể để ánh sáng của Đấng Tạo Thành đuợc muôn đời rạng chiếu.
Và nếu muốn tả trọn vẹn trung thực con người Gioan, thiết nghĩ chẳng có gì xác đáng hơn hai chữ ‘khiêm cung’. Hai ngàn năm truớc công nguyên, Gioan đã nhận thức đuợc rằng Đức Kitô chỉ có thể đến khi có người dám khiêm cung mở lối dẫn đường. Khi khiêm cung nhìn nhận con nguời chúng ta không phải là sự sáng nhưng chỉ có thể làm chứng thôi về sự sáng Con Nguời.
Một trong những vấn nạn mà giáo hội Công Giáo chúng ta đang phải điên đầu đối phó là tệ nạn lạm quyền. Lạm quyền lại rất dễ dàng dẫn đưa tới lạm dụng, cộng tác viên trở thành thuộc hạ tay sai. Rồi kết bè kết phái. Rồi phe đảng hội hè.
Con Nguời đã nhập thể vì Mẹ, như thánh Gioan, nhìn nhận mình là “tôi tớ Chúa”. Mẹ đã sống rất mực khiêm cung và Thiên Chúa đã khiêm cung ngự trong cung lòng Mẹ. Hãy tâp sống khiêm cung, mãi mãi khiêm cung, để Hài Nhi Giêsu có thể nhập thể trong mỗi một tâm hồn. Hãy luôn sống như thế và đừng bao giờ dập tắt lửa khiêm cung bừng cháy từ dầu Thần Linh Chúa.
58. Suy niệm của Lm. Mark Link
ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?
Chủ đề: "Gioan là người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hãy sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"
Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề “Ngày Đức Kitô chết”. Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn văn đó như sau:
“Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm. Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến. Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai”
Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất là phấn khởi. Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa biển chết. Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến. Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giã bắt đầu rao giảng và làm phép rửa. Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hay dọn đường cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi” ( Lc. 3,3-4)
Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan tẩy gỉa đã đến tai những nhà lãnh tôn giáo ở Giêrusalem. Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế. Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế. Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cầm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình. Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.
Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: “Ông là ai?”. Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế “. Các tư tế hỏi: “nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có phải là Êlia không?”. Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa vào cuối đời. Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến. Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ. Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.
Họ hỏi: “Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?” Gioan lại trả lời: “Không!Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel”. Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?” Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến”. Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Gỉa, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô” còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”. (Mc.4)
Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người “tiền hô”cho Ngài. Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu. Giáo Hội hành động giống như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.
Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: “Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê…Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp…Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).
Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người "Tiền hô" của Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải. Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa. Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng”.
59. Chú giải của Noel Quesson
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng.
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như "người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử dụng 14 lần, và động từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về "bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng không phải là vị Ngôn sứ... tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: "ông có nhận mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không, tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết" và gọi tên " Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta... Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn...", như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay "thống trị". Người như "tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là "Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể " của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu "(Vậy ông là ai'), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là "Thiên Chúa không thể biết được”, là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo" Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được 'biến đi" để Người “lớn lên" (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ" không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất "tác vụ " của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác " (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng nhân" tuyệt hảo, mà cũng là "mẫu tín hữu" tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con "tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên “thanh tẩy", các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội" (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước... nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì "chiên xóa bỏ tội trần gian" sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến... từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng "thừa sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên bờ sông bên kia.
60. Minh họa Lời Chúa
Chúa Cứu Thế ở giữa anh em mà anh em không biết
1. Đi Giảng Đạo
Ngày nọ, Thánh Phanxicô Assisi nói với thầy trong dòng:
- Nào chúng ta cùng đi giảng đạo.
Thế là hai cha con ra đi, đi hết đường này, sang đường kia, rồi quẹo, sang ngã khác về nhà. Khi về đến nhà, thầy dòng thắc mắc hỏi:
- Thưa Cha, con nghe Cha nói mình đi phố giảng đạo cơ mà?!....
- Chúng ta đã giảng đạo rồi đó. Khi chúng ta đi đường, mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghe về đời sống của ta, rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống của linh hồn họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi đó sao?
---------
Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào kết quả cho bằng chính đời sống chứng tá của mình. (Theo “Minh họa Lời Chúa”).
2. Sống giữa người nghèo
Trong tác phẩm “Bản nhạc của Thiên Chúa”, tác giả kể câu chuyện sau đây.
Một ông vua nọ có đứa con trai duy nhất kế vị ông. Người con trai này có nhiều đức tính tốt., nên toàn dân vui mừng khi nghe vua cha sẽ nhường ngôi cho cậu. Nhưng trước khi lên ngôi kế vị, cậu xin phép du hành một chuyến để tìm hiểu đất nước và tình hình dân sự.
Sau khi người con ra đi, vua cha ngã bệnh nặng băng hà. Tình trạng trống ngôi vua khiến đất nước lâm cảnh rối ren, dân chúng lầm than khốn khổ. Người ta biết hoàng tử đang ở trong nước, nhưng không xác định được ông đang ở đâu. Triều thần đổ xô đi tìm khắp nơi nhưng không ai tìm thấy dấu vết nào. Có số người vào tìm trong thành thị giàu có sang trọng, nhóm người khác tìm nơi các nhà chính trị hoặc kinh doanh nhưng cũng chẳng ai tìm gặp hoàng tử.
Trong khi đó, tại một xóm nghèo người ta thấy có một thanh niên ngày ngày tận tâm phục vụ người nghèo. Tiếng tăm của người thanh niên đó ngày càng lan rộng khắp nơi. Nhờ đó mà người ta nhận ra đó là hoàng từ và đặt lên kế vị ngai vàng. Và toàn dân mến phục vi vua này…
----------
Chúa Cứu Thế đã đến ở giữa mọi người, nhứt là tận tâm tận lực phục vụ người nghèo khổ bất hạnh, đến nỗi chết treo trên khổ giá để cứu độ họ. Thế mà mấy ai nhìn nhận? mấy ai biết ơn? Mấy ai mến phục?... (Theo “Chờ đợi Chúa”)
3. Tại vì anh hút thuốc
Greg Louganis là nhà vô địch thế vận hội về môn bơi lội. Anh đang chuẩn bị rời hồ bơi. Bỗng anh nghe thấy một chú bé ngậm điếu thuốc chạy về phía anh. Anh gọi nó và bảo:
- Em không nên hút thuốc. Tại sao em hút thuốc?
Đứa bé trả lời một cách hết sức tự nhiên:
- Tại vì anh hút thuốc, nên em bắt chước anh!...
Greg mới nhớ sực lại mình đang ngậm điếu thuốc trên môi.
Sự kiện đó tác động mạnh đến việc anh bỏ hút thuốc . Anh nói:
- Tôi có bổn phận phải làm gương tốt cho các em nhỏ.
----------
Muốn làm sứ giả dọn đường cho Chúa đến cứu độ tôi và mọi người, tôi có bổn phận làm gương tốt như anh Greg trên đây không? Tôi có cần chửa bỏ tội lỗi và thói xấu để kẻ khác bắt chước không? Tôi có cần thực hiện điều lành việc tốt để làm gương không? (Theo “Vision 2000”).
4. Ánh sáng muôn dân
Trong truyện cổ Phi Châu có câu chuyện sau đây:
Cụ già kia có 3 con trai. Nhờ cần cù làm việc, ông có được gia tài khá nhiều. nay ông thấy gần đất xa trời rồi, muốn để gia tài cho đứa con nào khôn ngoan, để nó gìn giữ và phát triển được.
Hôm nọ, ông gọi 3 người con đến tro cho mỗi người 5 đồng, bảo đi mua cái gì có thể làm đầy phòng khách nhà ông. Mọi người lãnh tiền ra đi.
- Ngày hôm sau, ba an hem đến bên giường cha già, đem theo vật đã mua. Người anh cả đem bó rơm trải lên chỉ đầy sàn nhà.Người anh kế mở túi lông gà chỉ đủ rải qua loa. Người cha nhìn hai đứa con lớn tỏ vẻ buồn, rồi ông quay sang hỏi đứa con út:
- Còn con, con mua gì đâu?
Cậu rút ra cây nến và bao diêm. Cậu bật diêm lên, đốt cây nến và ánh sáng tỏa khắp phòng. Người cha thấy thế hài lòng sung sướng, chia phần gia tài nhiều nhứt cho cậu.
--------
Chúa Giêsu đã đem ánh sáng đến cho muôn dân, và ở giữa mọi người, mà con người không nhìn thấy Ánh Sáng cứu rỗi của Người. Người là Ánh Sáng chân lý, Ánh Sáng hy vọng, Ánh Sáng ban sự sống…. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đón nhận Ánh Sáng của người, và thắp lên tia sáng tình thương cho những người sống xung quanh chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam