Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 33

Tổng truy cập: 1376723

TIẾNG KHÓC

Tiếng khóc

Trung Hoa người ta thường truyn ming nhau câu chuyn v Tng Thế T nói vi thn t là Lưu Đức Nguyên rng: "Nếu ông vì qúy phi ca ta đã chết mà khóc ai oán thì ta s thưởng cho rt nhiu ca ci".

Lưu Đức Nguyên lp tc đấm ngc, dm chân khóc khan c c hng, nước mt nước mũi chy xung ào ào, hoàng đế rt hài lòng lin ban cho làm thích s D Châu.

Tôn Thế T li kêu đại phu Dương Chí, ông này cũng khóc rt là thm thiết, không bao lâu sau có người hi Dương Chí: "Ngài làm thế nào mà ging như tht vy?"

Dương Chí nói: "Vì lúc y bà v bé ca tôi cũng mi chết".

Qua câu chuyện kể trên, ta thấy lưu Đức Nguyên và Dương Chí đều khóc lóc thảm thiết, có thể qua mặt được Tống Thế Tổ, nhưng trong lòng hai người với hai kiểu khóc khác nhau, một người khóc vì,lợi danh còn một người khóc vì thương tiếc người vợ bé của mình. Đó cũng chính là hai kiểu khóc mà chúng ta rất dễ thấy trong cuộc sống. Đặc biệt trong bài dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra các kiểu khóc qua 3 nhân vật:

1. Kiu khóc thng hi.

Việc người con thứ xin chia gia tài trong lúc người cha còn sống là một thái độ bất trung, bất hiếu, vì khi còn sống người cha không buộc chia gia tài cho con. Có thể nói người con thứ này thật đáng trách, cái đáng trách không phải ở vật chất, của cải mà là vì muốn thõa mãn ý riêng bất chấp tất cả dù điều đó làm phiền lòng cha "xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Mọi hành động của người con thứ chỉ có thể diễn ta bằng hai chữ "tội lỗi". Nhưng tất cả những lỗi lầm đó đã được xóa bỏ cũng bằng hai chữ "sám hối". Qua việc anh ta muốn "thưa cha con đã phạm đến Trời và đến cha". Sự hối lỗi ở đây không phải vì miếng ăn, cũng không vì anh ta qúa cực, nhưng nó được ăn năn hối lỗi từ tấm lòng thành, từ tình thương của người cha đã làm cho anh ta hối lỗi thật sự. Tự nơi đáy lòng anh một tiếng khóc thống hối đã được cất lên, từ một con tim, từ một quyết tâm từ nay quay đầu trở lại, quyết sống thành một người con tốt. Thật vây ta mới thấy rõ "không một thánh nhân nào không có quá khứ, không một tội nhân nào lại không có tương lai". Vì thế, chúng ta không có quyền đáng dấu chấm hết cho bất cứ ai, nhưng hãy mở ra cho họ một con đường sống, và điều quan trọng là mở rộng tình thương đón nhận người khác và nhìn lại mình để mà cất tiếng khóc thống hối.

2. Kiểu khóc mướn

Là kiểu khóc dành cho người anh, vì khóc mướn chính là hành động bên ngoài xem ra rất tốt, nhưng bên trong thì không. Có khi là hoàn toàn ngược lại, họ khóc với một điệu bộ thê lương vì tiền, chứ không phải vì tử biệt sinh li, họ bán nước mắt, bán cử điệu bên ngoài, hay nói đúng hơn là họ làm động tác giả để mà sống... họ chỉ còn thiếu một chút xíu đó là tấm lòng.

Hình ảnh người con cả hôm nay ám chỉ người Do Thái cách riêng ám chỉ các luật sĩ và biệt phái... Suốt ngày họ không phạm một điều gì trong lề luật "không hề trái lệnh cha một điều nào". Sống bên ngoài xem ra rất tốt, học "khóc" rất hay, nhưng chính lời nói cuối cùng đã tố cáo con người của họ "còn thằng con của cha kia", câu nói cho thấy một sự loại bỏ, một sự trù dâp, thiếu tình yêu thương nhưng lại thể hiện một sự kiêu ngạo tự mãn về mình. Do đó, một hành động tốt, hay một loạt hành động tốt cũng không thể chứng minh đó là người tốt, mà người tốt phải có hành động tốt, và con tim tốt. hàng ngày chúng ta vẫn khóc qua các cử chỉ và hành động, nhưng Thiên Chúa luôn muốn chúng ta khóc cả bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Ngài không hề vui khi chúng ta không đạo đức, siêng năng đi đọc kinh xem lễ lại sống xa cách, hay dửng dưng với người xung quanh.

3. Kiu khóc hnh phúc.

Người cha trong bài Tin Mừng nhằm ám chỉ Thiên Chúa. Trước tiên Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người nên: "người cha liền chia gia tài cho con", tuy rằng theo luật người cha không buộc phải chia gia tài cho con khi còn sống, nhưng người cha lại chia ngay, không do dự, không ngăn cản khi người con xin: điều này chứng tỏ người cha tôn trọng sự tự do vì thương con. Điều này muốn diễn tả Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người ngay cả khi con người bất trung với Người, vì Người luôn trung thành và yêu thương con người. Điều quan trọng nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là lòng nhân từ của người cha, và sự hối lỗi của đứa con hoang đàng. Hai hình ảnh này đã vẽ lên cho bài dụ ngôn một bức tranh tuyệt vời. Một bên là người con khóc hối lỗi, còn một bên là người cha nhân từ khóc hạnh phúc vì đã tìm được đứa con mà mình mong ước. Chắc chắn người cha không lúc nào lại không chờ mong con mình. Ông không cần đợi thằng con "bất hiếu" lên tiếng, nhưng vì tình yêu và lòng nhân từ ông đã đi bước trước "khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy liền động lòng thương!". Ôi lòng nhân từ của Thiên Chúa đã vượt xa hơn muôn ngàn tội lỗi con người, Thiên Chúa luôn đợi ta mỗi ngày, còn ta thì cứ dửng dưng, lạm dụng tự do, mê của đời trần thế mà bỏ chính người cha luôn yêu thương mình. Chắc chắn Thiên Chúa ghét tội, nhưng Ngài luôn yêu thương kẻ có tội. Vậy trong tâm tình sám hối chúng ta hãy trở về với người cha đang chờ đón chúng ta. Amen.

 

54. Giá trị

Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v… một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.

Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới ba dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để đi tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.

Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người Pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quí giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.

Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người Pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người Pharisêu nổi tiếng là thánh Phaolô (bài đọc 2).

Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.

Lý do là: Cái mất đi trở thành cái quí giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quí.

Sự quí giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau).

Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tđang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi bị lạc mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.

Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?

- Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.

- Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.

- Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.

 

55. Tạo vật được yêu thương

Qua những gì Thiên Chúa làm cho con người, con người biết hơn về Thiên Chúa. Qua thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân, con người biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Đấng yêu thương con người vô cùng.

Con người có là chi!

Con người thường chỉ yêu quý những người tài giỏi và ngoan hiền. Với những người không tốt, con người thường xa lánh. Thiên Chúa không đối xử với con người như vậy. Ngài đi tìm người tội lỗi như người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, như người cha đứng chờ người con hoang trở về. Con người là chi đối với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đối xử với con người như vậy?

Như người chăn chiên bỏ lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc, và khi tìm được, lại còn vác nó trên vai, Thiên Chúa cũng yêu thương và trân trọng con người như vậy! Tin Mừng hôm nay cho thấy khi một tội nhân trở về, cả trời đất đều vui mừng, cả triều thần trên trời hân hoan. Theo cách nói nhân hình, có thể nói, chính Thiên Chúa cũng vui mừng khi một người tội lỗi ăn năn trở lại. Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương ngay cả người tội lỗi vô cùng.

Người con bỏ nhà đi hoang đắc tội với cha và với anh của mình. Thế nhưng, người con trưởng cũng lỗi phạm với cha và với em của anh ta. Vì anh ta sống với cha mà có thái độ và tâm tình của người làm thuê. Người con trưởng coi cha như ông chủ chứ không phải như cha mình, hơn nữa, anh ta không muốn nhận em mình khi nó trở về. Người con thứ từ bỏ cha và anh để ra đi; còn người anh đã không coi cha như cha và cũng chẳng muốn nhận em mình; có lẽ cả hai đều giống nhau. Còn người cha, người cha không chỉ yêu thương người con thứ hoang đàng, nhưng Ngài yêu thương cả người con trưởng. Ngài năn nỉ người con trưởng, xin người con trưởng chấp nhận em mình.

Trong dụ ngôn hai người con, chính người cha đã nhận ra đứa con bỏ nhà ra đi trở về, và người cha này đã không còn tự chủ đứng chờ người con đi về với mình nữa, người cha cũng không chờ người con nói lời xin lỗi, nhưng người cha đã chạy tới với người con, ôm lấy con và hôn người con hoang đàng cho dù nó chưa nói lời xin lỗi. Người cha yêu thương người con quá sức, cho dù nó hoang đàng đã bỏ cha bỏ nhà ra đi! Con người được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy sao?! Nếu Thiên Chúa yêu thương con người và ngay cả người tội lỗi vô cùng, thì con người phải có thái độ đối với nhau thế nào cho xứng hợp là con cái Thiên Chúa.

Con người có là gì mà được Thiên Chúa yêu thương và quý trọng như vậy? Giá trị con người là tuyệt vời. Nếu không tuyệt vời, tại sao lại được Thiên Chúa yêu thương và quý chuộng như vậy? Nếu Thiên Chúa yêu thương con người như vậy, con người còn gì phải lo lắng nữa? Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ban chính Con của Ngài cho chúng ta, vậy thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ, không phải vì chúng ta tốt, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta, ai giựt chúng ta khỏi tay Ngài được?!

Thiên Chúa nhân t

Con người yếu hèn mong manh, nay còn mai mất, thế nhưng lại là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa. Qua người tội lỗi được yêu thương, con người nhận biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ và yêu thương.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chỉ biết yêu thôi, và làm tất cả vì yêu. Ngài không làm bất cứ điều gì cho con người mà không phải vì tình yêu đối với con người. Cụ thể Thiên Chúa không làm gì cho tôi mà không phải vì yêu thương tôi. Phaolô trước khi trở lại, là người tội lỗi. Chính Phaolô đã giữ áo cho những người ném đá thánh Tê-pha-nô. Phaolô đã miệt mài bắt bớ các Kitô hữu. Biến cố trên đường Đamas xảy ra khi Phaolô đang trên đường truy lùng Kitô hữu. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn yêu thương và chọn Phaolô, và không chỉ thế, Thiên Chúa còn dùng Phaolô như lợi khí của Thiên Chúa đối với dân ngoại. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ, nhưng Ngài còn luôn mời gọi người tội lỗi trở lại cộng tác và thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.

Bài đọc trong sách Xuất Hành cho thấy tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ, để dân Do Thái bắt đầu lại cuộc đời mới, tương quan mới với Thiên Chúa. Đôi khi một vài bản văn của một số sách Cựu Ước làm người ta có cảm tưởng rằng Thiên Chúa không nhân từ bằng Abraham hay Môsê, nhưng đó là cách diễn tả để tôn trọng tính tuyệt đối của Thiên Chúa, chứ chính Thiên Chúa là Đấng đã làm cho Abraham và Môsê như các ông là, để cho dân được hưởng tình yêu nhân từ tha thứ của Thiên Chúa.

Trong mọi bằng chứng diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, Đức Yêsu chết trên thập giá là bằng chứng tuyệt hảo nhất cho thấy Thiên Chúa nhân từ và yêu thương con người. Nếu không yêu thương, tại sao Lời Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Nếu không yêu thương, tại sao Ngài phải chịu chết ô nhục như vậy? Thập giá mình chứng tình yêu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Đối với những người chán đời và muốn chết, điều gì là quan trọng nhất?

2. Đâu là bằng chứng tuyệt nhất cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người? Tại sao?

3. Làm sao để thành người tuyệt vời? Cụ thể trong cuộc sống thường ngày, làm gì để đáp trả tình yêu Thiên Chúa?

 

56. Bởi vì chúng nó là con của tôi!

Một hạt giống nhỏ bé nằm ở dưới lòng đất, và bắt đầu nảy mầm. Nhìn thấy những đóa hoa khác, nó tự hỏi, “Không biết mai mốt tôi sẽ nhìn giống hoa gì nhỉ?”

“Gương mặt của hoa huệ thì đẹp, lộng lẫy, nhưng hơi lạnh lùng. Còn hoa hồng thì quá sặc sỡ, và cũng quá cổ rồi. Còn đóa hoa tím, tôi sẽ không chọn kiểu hoa ấy đâu, hoặc là cả cái hoa mầu xanh dương.”

Và cái hoa nhỏ bé đó đã phê bình đủ mọi thứ hoa cho đến khi nó tỉnh giấc vào một buổi trưa hè nắng khi nó nhận ra mình chỉ là một loại hoa cỏ dại!

Các thánh ký viết Phúc Âm nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã bị bè phái Pharisiêu phê phán đủ chuyện cả. Trong bài Phúc Âm hôm nay, họ bàn tán phản đối Ngài là người qua lại với thứ tội lỗi. Trong thời Chúa Giêsu, kẻ tội lỗi được hiểu là người chống lại Thiên Chúa, có thể là cuộc sống vô luân hoặc là đang làm công việc bần tiện. Dĩ nhiên, câu định nghĩa này bao gồm luôn cả những người thu thuế, đĩ điếm, là những người bị phái Pharisiêu xa cách, mà chỉ có Chúa Giêsu thì không.

Thánh Luca kể lại cho chúng ta biết rằng những người thu thuế và kẻ tội lỗi thì đến gần Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Còn những người Pharisiêu và luật sĩ thì bàn tán với nhau rằng, “Ông này qua lại và ăn uống với kẻ tội lỗi” (Lc 15:2). Những người Pharisiêu là những kẻ bị gai mắt soi bói rằng: Làm sao mà ông này lại nói về Thiên Chúa với thứ dân này? Chúa Giêsu đã trả lời các ông qua các dụ ngôn.

Dụ ngôn thứ nhất là về người chăn 100 con chiên mà bị lạc mất một con. Anh đã bỏ 99 con kia lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất. Khi tìm thấy nó, anh đã vác nó lên vai và trở về nhà vui mừng. Sau đó, anh đã gọi bạn bè lại và ăn mừng. “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7).

Dụ ngôn thứ hai là người đàn bà có 10 đồng quan, mà chẳng may bà đã đánh mất một đồng. Sau đó, bà đi tìm và tìm thấy nó, bà vui mừng và mời bạn bè đến chia vui (Lc 15:8-9).

Dụ ngôn thứ ba là người con hoang đàng. Anh đã đòi cha của anh chia gia tài và đi chơi phung phí ở phương xa. Sau khi đã xài hết tiền của rồi, hai bàn tay trắng, anh đã trở về với lòng thống hối xin cha anh tha thứ. Người cha đã sẵn sàng tha thứ cho anh mà còn ôm hôn anh. Thế nhưng, người con lớn trong gia đình thì không chút vui vẻ gì đối với thái độ cư xử nhân hậu của cha, anh hậm hực tức tối bởi vì anh đã ở nhà với cha trong khi người em của anh lại đi trụy lạc ở ngoài.

Có lẽ nhiều người sẽ thà chịu mất một con chiên và ở lại với 99 con chiên, hoặc là chẳng để công mà tìm một quan tiền, đàng nào cũng còn 9 quan. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với thái độ bực tức của người con lớn bởi vì anh đã trung thành ở với cha mình mà lo lắng tất cả những công việc trong nhà.

Hãy thành thật với chính mình đi! Bạn có thấy tiếng từ trong tâm hồn của bạn đang đồng ý với những điều đó không? Đáng lẽ người con trung thành ở nhà với cha, phải đáng giá hơn chứ?

Trong đề tài về giá trị con người, nhà thần học Michael P. Green đã trình bày như sau:

Giả dụ như có một bà mẹ vừa mới sinh ra được một người con. Sau đó, một người đến hỏi bà mđó bán người con đó cho ông. Ông sẽ trả cho bà $10,000 hoặc thậm chí ông có thể trả cho bà cả một triệu đồng. Thế nhưng bà mấy sẽ vẫn không bán người con yêu quí của mình cho người đàn ông đó. Bà chỉ biết ôm con sát vào lòng và trả lời, “Con của tôi thì vô giá.”

Một điều dĩ nhiên là bà mđã đó không suy nghĩ gì đến những vất vả mà bà sẽ phải trả khi phải nuôi lớn đứa con của bà. Bà sẽ phải thay cđến hơn ngàn cái tã, thức khuya dậy sớm, lo thuốc thang khi nó bệnh. Thế nhưng tất cả những cái khổ cực đó vẫn không là gì bởi vì bà mđó đã chọn cái giá trị của đứa bé đó cao quí hơn là tiền bạc và khó nhọc. Bà đã chọn để yêu người con của bà.

Đáng giá như thế không phải là ở chỗ cái nhìn ở bên ngoài, nhưng là con người. Cái đáng giá đó, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa, phải là một căn bản cho sự định giá của con người chúng ta.

Trở về dụ ngôn người con hoang đàng, người cha đã có thể mở rộng cánh tay để ôm người con vào lòng là bởi vì ông không nghĩ đến những điều cậu đã làm, nhưng vì cậu là con của ông.

“Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7). Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương kẻ có tội hơn là những người ăn ở tốt lành. Chân lý của Phúc Âm không phải là Thiên Chúa thiên vị yêu kẻ này hơn kẻ khác. Chân lý của Phúc Âm chính là Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta một cách đồng đều. Chân lý đó là tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi, kể luôn cả những kẻ cho rằng mình tốt lành mà không nghĩ rằng mình cần phải sám hối.

 

57. Chúa Nhật 24 Thường Niên

Còn có Th Tình Yêu nào cao c hơn?

"Trên tri s vui mng vì mt người ti li ăn năn sám hi, hơn là vì 99 người công chính không cn ăn năn..." (Lc 3, 24)

Anh chị em thân mến,

Chương 15 của Phúc âm thánh Luca mà chúng ta đọc trong ngày Chúa Nhật hôm nay, gồm 3 dụ ngôn, được coi như tuyệt phẩm của Tình yêu: dụ ngôn bầy chiên với 100 con: lỡ mất một con; ông chủ sẵn lòng để 100 con lại đó, đi tìm cho được con mất, vác trên vai đem về - dụ ngôn 2: người đàn bà lỡ mất một đồng bạc, liền thắp đèn, quét nhà tìm cho đến khi thấy được đồng bạc đó - nhất là dụ ngôn cuối cùng: người con hoang đàng và người cha nhân hậu với lời kết luận từ miệng người cha: "chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy..." Cả ba dụ ngôn diễn tả thật đậm nét tình yêu thương vô bờ Thiên Chúa đối với tội nhân hối cải. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a. Nguyên do ba bài d ngôn: số là các người thu thuế và người tội lỗi thường đến bên Chúa Giêsu để nghe Chúa giảng dạy; thấy vậy, mấy người biệt phái, kinh sư xầm xì chê trách Chúa Giêsu: ông này hay niềm nở đón tiếp kẻ tội lỗi, ăn uống với chúng nữa. Những người Do thái làm nghề thu thuế cho người La mã bị xếp ngang hàng với người tội lỗi, bị khinh miệt và bị loại trừ khỏi phụng vụ đền thờ nữa. Chính họ không tự nhận mình tốt lành; trong khi nhóm biệt phái, kinh sư là nhóm người có địa vị cao trong đạo do thái. Họ nhiệt thành quá với Lề Luật, đến độ thiếu lòng bác ái, thích sống giả hình, hay coi khinh kẻ khác. Chính Chúa Giêsu nhiều lần đả kích họ. Cũng chính mấy bài dụ ngôn sau đây muốn nói lên điều đó...

b. Hình nh người ch chăn có 100 con chiên - hình nh người cha nhân hu: chính là hình ảnh Thiên Chúa Tình yêu, luôn chủ động đi tìm con chiên lạc, cho đến nổi có thể bỏ lơ 99 con chiên tốt lành, chỉ để đi tìm con chiên bị lạc; vì " trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn năn.." Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai Con Thiên Chúa, đã chấp nhận sinh vào trần gian...đã lặn lội đi rao giảng Nước Trời cho mọi người.... băng bó chữa lành cho kẻ đau yếu... và đã chết đau thương vì nhân loại chúng ta. Như vậy, chính Thiên Chúa là người đi bước trước trong Tình Yêu, người chủ động kêu mời nhân loại sống trong Tình Yêu, nhất là kêu gọi trở về trong Tình Yêu khi đã bị mất. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu, cho chúng ta thấy mối bận tâm duy nhất của ông chính là: làm sao cho đứa con lỡ đi hoàng đàng: đi tìm - vui mừng khi tìm được - khi con trở về, ôm cổ hôn lấy hôn để, sai gia nhân làm tiệc...Chính câu trả lời của ông cho người con cả, đã nói hết tấm lòng của Ông: "này con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.."

c. Thái độ ca hai người con: Người con thứ: tính tình nông cạn, ảo tưởng, đam mê, tội lỗi, xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa: đó chính là hình ảnh của cả nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, sau khi ăn năn, thái độ của anh ta thật đáng khen, vì biết mạnh dạng, dứt khoát, không chần chừ. Đó chính là gương thật lòng ăn năn sám hối.... Người con cả: bên ngoài xem ra là mẫu mực, không có điều gì chê trách, nhưng trước tấm lòng bao dung của cha, người con cả tỏ ra tự phụ, khinh khi em mình trước mặt cha. Thật là thái độ đáng tiếc...Chính thái độ này cũng là thái độ của các kinh sư, biệt phái, tự cho là mình chân chính, là con cháu tốt lành của Abraham, để từ đó coi khinh kẻ khác

d. Gi ý sng và chia s: Là người kitô hữu ngày hôm nay, đọc qua gương của hai người trong bài Tin Mừng hôm nay, đã cho ta bài học nào? Khi nhìn lại, ta thấy mình là hạng người con nào trong hai người con của Người Cha nhân hậu?

 

58. Suy niệm của Gier. Nguyễn Văn Nội

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao Đức Giêsu lại dùng đến những ba dụ ngôn để nói về lòng thương xót của Thiên Chúa?

2. Chúng ta học được điều gì từ ba dụ ngôn ấy?

Suy tư gợi ý:

1. Ba dụ ngôn của lòng thương xót:

Luca là một tác gỉa Tin mừng rất tinh tế và có xu hướng thích trình bày về tình thương, về lòng nhân ái. Chính vì thế mà khi muốn làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa, Luca đã sắp xếp 3 dụ ngôn lại với nhau: con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất, người con đi hoang trở về. Còn ý của Đức Giêsu? Một phần Đức Giêsu muốn thanh minh với các người Pharisêu về cách cư xử “khó hiểu” của ngài đối với thành phần cùng đinh của xã hội là những người bị xã hội coi là tội lỗi, là đáng khinh, đáng loại trừ. Một phần Đức Giêsu muốn mọi người hiểu rằng đấng Thiên Chúa mà ngài gọi là Cha và muốn cho mọi người nhận biết là một Thiên Chúa Yêu Thương. Thậm chí người ta có thể gọi Ngài bằng ngôn ngữ của trẻ thơ để gọi: Abba, Lạy Cha! Cha ơi! Ba ơi! Bố ơi! Người Do Thái đã quá nhấn mạnh đến tính công bằng của Thiên Chúa nên đã vẽ nên một hình ảnh khắc nghiệt.

2. Bài học từ ba dụ ngôn:

* Thiên Chúa luôn tìm kiếm con người, nhất là người tội lỗi, để cứu họ khỏi cảnh lầm lạc mà đưa họ về dưới mái nhà của Cha.

* Thiên Chúa dễ dàng quên những tội tầy đình của những người con đi hoang và luôn trông ngóng họ quay về.

* Thiên Chúa vui mừng, hạnh phúc giang rộng cánh tay đón nhận con chiên lạc, người con đi hoang để ôm ấp yêu thương, bù đắp cho những ngày tháng bất hạnh của chúng.

* Con chiên lạc được tìm thấy, đồng bạc đã mất tìm lại được và người con thứ đi hoang trở về….. không thể vì thế mà quay lại với quá khứ đi lạc, đánh mất hoặc đi hoang. Vì như thế là quá coi thường tình thương của Thiên Chúa vừa là Cha vừa là chủ.

* Nếu chúng ta học được lòng thương bao la của Thiên Chúa mà cư xử nhân ái với tha nhân…. Nếu chúng ta dấn thân vào việc tìm kiếm những con chiên lạc đem về thì chắc Thiên Chúa sẽ rất vui và sẽ hãnh diện vì chúng ta!

NGUYỆN:

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã dậy cho chúng con biết về Thiên Chúa là Tình Yêu, là Lòng Thương Xót Vô Biên. Chúng con yếu đuối, tội lỗi, thấp hèn lắm! nên chúng con cảm thấy được vững tâm, tin tưởng khi chạy đến với Thiên Chúa để xin ơn thứ tha. Xin Chúa giúp chúng con biết sống nhân ái với mọi người, nhất là với những ai mà chúng con thường khắt khe. Xin Chúa ban nhiệt huyết cho chúng con để chúng con hăng say tìm kiếm những con chiên lạc, đem họ về nhà Cha. Amen.

 

59. “Tôi đã tìm thấy con chiên lạc”

(Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh)

Suy nghiệm kỹ hai bài Phúc Âm, bài của Chúa Nhật XXIII Mùa Thường Niên Năm C tuần trước và bài của Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên Năm C tuần này, chúng ta thấy ý nghĩa của hai bài Phúc Âm này rất ăn khớp với nhau. Nếu trong bài Phúc Âm tuần trước Chúa Giêsu khuyên dạy đối tượng muốn theo Người phải “từ bỏ chính bản thân mình”, thì trong bài Phúc Âm tuần này, Người lại diễn tả tâm tưởng của Người về đối tượng không chịu “bỏ mình” theo Người, tức lạc xa Người, là “Tôi đã tìm thấy con chiên thất lạc… tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất”. Đúng thế, theo lời Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm tuần trước, con người có trách nhiệm phải chủ động bỏ mình đi và vác thập giá mới có thể theo Người, tức mới có thể đến cùng Cha, mới có thể hiệp thông với Thiên Chúa. Trái lại, trong bài Phúc Âm tuần này, dù con người không thể hay không chịu theo Chúa, không thể hay không chịu đến với Người, vì không chịu hay không thể bỏ mình và vác thập giá theo Người, mà chính Người đã phải chủ động và tích cực đi tìm họ cho đến khi gặp được họ, để có thể dẫn họ về với Cha, nghĩa là Người đã tự bỏ mình và vác thập giá theo đuổi họ, thay vị họ phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người. Chính vì thế, trong bài chia sẻ tuần trước, chúng ta đã cùng nhau cảm nghiệm là: “Thiên Chúa chẳng những đã ‘bỏ mình đi’, khi ban Con Một Ngài cho chúng ta, để có thể đến với chúng ta nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ngài còn phải ‘vác thập giá’, khi phó nạp Con Ngài vì chúng ta qua Mầu Nhiệm Vượt Qua, để có thể cứu độ chúng ta và ban Thánh Linh hiệp thông cho chúng ta”.

Ở đây, qua bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa hơn là nhấn mạnh đến phản ứng của tội nhân đối với Ngài. Sự kiện đề cao thái độ chủ động của Thiên Chúa khoan dung, hơn là phản ứng của tội nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, được hiện tỏ qua hai bài đọc một và hai. Đó là lý do, Giáo Hội chỉ buộc đọc hai dụ ngôn, dụ ngôn thứ nhất về việc chủ chiên tìm thấy con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, và dụ ngôn thứ hai về người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất duy nhất trong 10 đồng. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đọc dụ ngôn thứ ba về người con hoang đàng, nhưng lại là đoạn Phúc Âm được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, nghĩa là không buộc đọc. Tại sao? Theo tôi, tại vì hai lý do sau đây. Thứ nhất là vì dụ ngôn thứ ba liên quan đến thái độ chủ động thống hối của người con hoàng đàng hơn thái độ thứ tha của người cha, do đó mới có lý do thứ hai, lý do là vì dụ ngôn thứ ba này nói đến thái độ người cha chờ con về chứ không tự động đi tìm kiếm nó, như thái độ của người chủ chiên đi tìm chiên lạc hay như thái độ của người đàn bà tìm của mất ở hai dụ ngôn trước. Tuy nhiên, nếu chỉ để ý đến khía cạnh Thiên Chúa chấp nhận con người, dù con người tội lỗi đi nữa, thì dụ ngôn về người con hoang đàng cũng hợp với dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc mất. Thật vậy, qua bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXIV Năm C tuần này, chúng ta thấy được giá trị hết sức cao cả của bản thân mỗi một con người tạo vật chúng ta trước nhan Thiên Chúa hằng sống vô cùng toàn thiện. Việc Thiên Chúa yêu thương tìm kiếm con người nói chung và từng người nói riêng cho chúng ta thấy con người tạo vật chúng ta, chung cũng như riêng, thực sự là loài được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Ngài. Không phải hay sao, nếu Thiên Chúa Duy Nhất nhưng lại một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, thì con người cũng thế, cho dù đều là con người như nhau, song mỗi con người lại là một ngôi vị riêng biệt, một chủ thể biệt lập, chứ không phải chỉ là một khối đồng thể như nơi loài thú vật?

“Thiên Chúa là tình yêu”, như Vị Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu định nghĩa trong Thư Thứ Nhất của mình ở đoạn 4 câu 8 và 16, đã chẳng những “yêu (chung) thế gian đến ban Con Một mình” (Jn 3:16), mà còn yêu riêng từng người đến trong thế gian nữa; và Ngài chẳng những yêu họ khi họ đã vào đời mà còn yêu họ ngay cả trước khi họ nhập thế nữa, khi họ còn trong lòng mẹ nữa, như chính Ngài đã phán cùng tiên tri Giêrêmia, vị đã ghi nhận sự thật cảm kích này ở đoạn 1 câu 5: “Trước khi Ta hình thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã chỉ định ngươi làm tiên tri cho các dân nước”. Chưa hết, “Thiên Chúa là tình yêu” chẳng những yêu thương mỗi một người chúng ta chỉ vì chúng ta là tạo vật của Ngài, một tạo vật được Ngài dựng nên hoàn toàn tốt lành ngay từ ban đầu, nghĩa là khi chúng ta còn ngây thơ vô tội chưa biết đến tội lỗi là gì, mà còn yêu thương chúng ta cả khi chúng ta “là những tội nhân” nữa, như Vị Tông Đồ Dân Ngoại xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 5 câu 8. Đó là lý do, ngay sau khi sa ngã phạm tội, hai nguyên tổ của loài người chúng ta, lúc hai vị còn đang đổ lỗi cho nhau, không hề biết mở miệng xin Chúa thứ tha, thì chính Ngài đã tự động tuyên hứa cứu độ cho chính thành phần tạo vật phản nghịch Ngài rồi, như Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15. Trường hợp “Thiên Chúa là tình yêu” yêu thương chúng ta khi chúng ta “là những tội nhân” còn được thể hiện tỏ tường qua việc Ngài tha không tận diệt dân Do Thái nữa, đám dân đã thực sự bỏ Ngài là Đấng họ đã tận mắt chứng kiến thấy Ngài ra tay uy quyền để cứu họ ra khỏi cảnh làm tôi Ai Cập, mà quay đầu đi tôn thờ con bò vàng đúc do họ tạo nên, như Sách Xuất Hành thuật lại trong bài đọc thứ nhất hôm nay. “Thiên Chúa là tình yêu” yêu thương chúng ta khi chúng ta “là những tội nhân” chẳng những được thể hiện qua việc thứ tha cho cả loài người ngay từ ban đầu, hay cho cả một dân tộc, như trường hợp Dân Do Thái trong bài đọc một hôm nay, mà còn cho từng con người chúng ta nữa, như trường hợp của chính Vị Tông Đồ Dân Ngoại, qua những gì ngài chia sẻ với Timôthêu trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong số đó, cha là đệ nhất tội nhân”.

Ôi, như thế thì Thiên Chúa đã chẳng yêu thương chung loài người tạo vật vô cùng thấp hèn chúng ta và mỗi con người tội nhân vô cùng bất xứng của chúng ta cho đến cùng hay sao? Mức độ “cho đến cùng” nơi tình yêu Thiên Chúa tỏ ra qua Chúa Giêsu Kitô đây, như Thánh Ký Gioan viết trong Phúc Âm của mình ở đoạn 13 câu 1, theo tôi, không liên quan đến chủ thể yêu là Thiên Chúa, mà là đến đối tượng yêu là tội nhân chúng ta. Bởi vì, đối với “Thiên Chúa là tình yêu” thì một khi yêu là Ngài yêu bằng cả tấm lòng của Ngài, một tình yêu tuyệt đối thủy chung, yêu từ đầu đến cuối, “yêu đến cùng”, chứ không yêu dang dở, yêu từ từ, yêu có hạn, yêu bập bềnh lên xuống tùy theo đối tượng có đáng yêu chăng, hay đáng yêu bằng nào hoặc đáng yêu lúc nào v.v. Đó là lý do Thiên Chúa vẫn yêu loài người chúng ta cả khi chúng ta “là những tội nhân”. Và cũng chính vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta “là những tội nhân” mà Người đã yêu “cho đến cùng”. “Cho đến cùng” ở đây không phải chỉ được hiểu “Thiên Chúa là tình yêu” tỏ lòng xót thương với chung loài người tội lỗi chúng ta, mà còn được hiểu là Ngài yêu thương cho đến tội nhân cuối cùng trong chúng ta, hay cho đến con người “đệ nhất tội nhân” trong chúng ta nữa. Đó là lý do Thánh Ký Gioan, sau khi cảm nhận “Người đã yêu thương thành phần thuộc về mình trên thế gian và muốn tỏ cho họ thấy Người yêu họ cho đến cùng”, liền nói ngay đến tông đồ Giuđa Ích-Ca: “Ma quỉ đã cám dỗ Giuđa trong việc phản nộp Người”, rối chính thánh nhân dùng câu “không phải mọi người đều sạch cả đâu”, câu Chúa Giêsu nói với tông đồ Phêrô, để ám chỉ về tông đồ Giuđa là: “vì Người biết kẻ phản nộp mình”. Như thế, Chúa Giêsu “đã yêu những kẻ thuộc về mình trên thế gian và Người cho họ thấy rằng Người yêu họ cho đến cùng” ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu yêu cả Giuđa là kẻ Người biết trước là sẽ phản nộp Người, bằng việc Người cũng cúi mình xuống rửa chân cho cả Giuđa nữa vậy.

Nếu qua Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, “Thiên Chúa là tình yêu” đã yêu thương nhân loại tội nhân chúng ta “cho đến cùng”, tức là cho đến con người “đệ nhất tội nhân” trong chúng ta, hay cho đến con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, cho đến đồng bạc duy nhất bị mất trong số 10 đồng bạc, thì quả thực, như Chúa Giêsu quả quyết với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly, ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 1 và 2, là: “Lòng các con đừng bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thày. Trong nhà Cha thày có nhiều chỗ ở lắm”. Chúng ta hãy nhớ rằng, Chúa Giêsu phán lời này ngay sau khi Người báo trước cho Phêrô biết sự việc Phêrô sẽ chối bỏ Người. Như thế có nghĩa là, dù chúng ta là ai và có tội lỗi đến đâu đi nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, yêu thương từng người chúng ta, tức mỗi một người tội nhân chúng ta bao giờ cũng có chỗ của mình trong cung lòng yêu thương vô biên bất tận của Thiên Chúa. Miễn là, phải, miễn là tội nhân chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, đừng bao giờ hồ nghi tình Ngài yêu thương chúng ta “cho đến cùng”. Như thế, “hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thày” chính là lời Con Thiên Chúa mời gọi “người ta từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa” vậy. Thành phần từ đông tây nam bắc được Chúa Giêsu nhắc đến trong Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XXII Năm C cách đây 2 tuần này không phải là thành phần “khi được mời thì đến ngồi vào chỗ thấp nhất” hay sao? Điển hình là con người đã thành thực cảm nhận trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong số đó, cha là đệ nhất tội nhân”, hay con người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 18 câu 13: “không dám ngẩng đầu lên trời. Chỉ biết đấm ngực mà thưa: ‘Ôi lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi’”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên Năm C theo Phúc Âm Thánh Luca hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực sự yêu thương con người tạo vật chúng ta “cho đến cùng”. Ở chỗ, qua Con Một của mình, Ngài đã đến để tìm kiếm chung loài người chúng ta cũng như riêng từng người chúng ta trong khi chúng ta “là những tội nhân”. Vì mỗi một con người chúng ta là một ngôi vị, một chủ thể, chứ không phải là thú vật, là một khối đồng thể, (tức là loài có thể cloning hay có thể được tạo sinh theo phương pháp vô tính dục), do đó, Thiên Chúa không thể yêu thương thế gian mà lại không yêu thương từng người chúng ta, hay yêu thương riêng cá nhân hơn tập thể loài người, như Ngài có vẻ tỏ ra như thế trong bài đọc một hôm nay. Tuy nhiên, dù là một ngôi vị riêng biệt, chúng ta cũng là một con người thuộc về loài người, loài được Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã làm người như loài người chúng ta. Phải chăng vì thế mà chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu chúng ta, và phải tha thứ cho nhau như Ngài đã thứ tha cho chúng ta?

 

60. Người con cả là chúng ta.

(Suy niệm của An-phong Nguyễn Công Minh, ofm)

Bài Tin Mừng dài hôm nay kể luôn 3 dụ ngôn “mất và tìm lại được” độc quyền của Luca. Chỉ xét về con số mà thôi, thì 3 dụ ngôn: chiên lạc, đồng tiền, người con hoang, có một bước lùi dần dần về sở hữu: có 100 mất 1; có 10 mất 1; và có 2 mất 1…, nhưng cái tỉ lệ mất nhân lên: 1%, 10% và 50%… Nếu mất 1%, 10% tìm lại được thì mừng rỡ, thì dụ ngôn người con hoang đàng, có hai mất một, tức mất 50% khi tìm lại được, niềm vui phải lớn biết bao, nếu như không có bóng dáng người con cả.

Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ mình thánh Luca ghi lại, với hai câu hỏi: (1) Tại sao ta lại để mắt tới người con cả ; và (2) Làm sao để ta thoát khỏi thái độ như người con cả.

1. Tại sao lại để mắt tới người con cả?

Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nó nói hết câu)-: “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo tốt để ăn mừng nó!”

Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên quốc những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói: “Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế tội lỗi đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”.

Chúng ta, những người đạo gốc, đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa Nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa, chịu thương chịu khó dậy sớm đến nhà thờ, tối thì đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được. (Ở đây ta không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong, chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!)

Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn này, nên vẽ bức tranh như sau: Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha. Còn người cha là một cụ già đáng kính và toả sáng tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều. Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, nhìn nghiêng một bên, hay nhắm một mắt –tất cả thái độ của anh ta toát ra sự khinh bỉ, và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con nhà họ. Đó, thái độ của chúng ta, không phải tất cả, nhưng hầu như phần đông, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.

2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này?

Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa, -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày công, ai nấy đều được một đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ- Ngoài lời khuyên đừng ghen tị, ta có thể nương theo mẩu thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình). Đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với chỉ là “đứa con của cha.”

Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại. Có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh trong đức tin đối với người khác. Hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.

Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật mắt đền mắt, mạng đền mạng được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin… thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn! Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn 3 ngày, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa. Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa. Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.

Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ tín (vì ở mãi với cha) nay nếu thêm lòng quảng đại nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự khoan dung tha thứ của Người Cha đối với đứa em.

Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà là nhân từ nữa mà kinh Tin Kính chúng ta sắp tuyên xưng: một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói “nhân từ,” nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ đó, mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng trung tín, sự quảng đại, lòng nhân từ của Người Cha đó.

 

61. Niềm vui khi tìm gặp lại

(Suy niệm của Lm Nguyễn Ngọc Long)

Niềm vui khi tìm gặp lại, thiết tưởng ai cũng đã sống trải qua trong đời. Cha mẹ gặp lại con cái sau lâu ngày đi làm hay đi học xa nhà. Vợ chồng gặp lai nhau, vì hoàn xa cách do chiến tranh gây ra, do tỵ nạn di cư mỗi người lạc một nơi. Bạn bè tìm thấy nhau sau thời gian cùng chung học mỗi người lưu lạc mỗi phương trời...

Còn nỗi vui mừng nào lớn lao hơn nữa, khi gia đình, bạn bè, đồng hương được xum hợp, đất nước được thống nhất không còn chia cắt hai miền Nam Bắc năm xưa ở bên quê nhà Việt Nam, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ không còn chia cắt hai miền đất nước Đông Tây nữa, khi người Đại Hàn ở miền Nam được sang tìm gặp lại thân nhân của mình ở miền Bắc nước Triều Tiên...

Đức Mẹ Maria và bà thánh Elisabét vui mừng hân hoan gặp lại nhau. Họ mừng rỡ chúc tụng nhau và cảm tạ Thiên Chúa (Lc 1:39-45)

Đức Mẹ Maria và Ông thánh Giuse lo lắng âu sầu đi tìm trẻ Giêsu đi lạc. Khi tìm gặp lại con mình, niềm vui mừng của Ông Bà biểu lộ qua sự ngạc nhiên, vì thấy con mình chững chạc ngồi nói chuyện với những người thông thái. Hai Ông Bà thở ra nhẹ nhàng và thốt lên lời biểu lộ niềm vui mừng âu yếm thương con: “Con ơi, sao con lại xử với Cha Mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:41-48)

Khi tìm gặp lại người thân yêu hay đồ vật quí báu đã lâu ngày thất lạc, tưởng như đã mất, lúc đó niềm vui mừng hân hoan không chỉ dào dạt trong trái tim trí não, nhưng hiện lộ ra trên gương mặt, nơi khoé mắt.

Niềm vui mừng đó có thể biến thành giòng nước mắt sung sướng hạnh phúc vì quá cảm động không nói nên lời và chỉ còn biết giang tay đón nhận. Như người cha con nhân lành mừng mừng tủi tủi giang đôi tay ôm hôn cậu ấm trở về bình an. (Lc 15:11-32).

Niềm hạnh phúc đó biến đổi gương mặt thành sáng rực đỏ chói, không phải vì xấu hổ, nhưng là dấu hiệu của sung sướng hạnh phúc đang sôi sục dâng tràn trong tâm hồn.

Niềm hân hoan sung sướng có thể là tiếng cười dòn đã vang tiếng, là lời khoe báo tin mừng cho mọi người. Như người mục đồng tìm thấy lại con chiên, con trâu, con bò, con dê của mình đi lạc đàn. Như một bà lão sống cảnh đạm bạc nghèo khó chiu chắt tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, lo âu quét nhà soi đèn mò mẫm tìm thấy lại đồng bạc đã mất. Vì đồng bạc này có thể giúp bà mua được gạo, được thức ăn cho ngày sống (Lc 15:1-10).

Vui mừng sung sướng hạnh phúc vì của châu báu hay người mình quý mến thương yêu đã thất lạc xa vắng, nay lại tìm gặp thấy.

Đó cũng là nỗi vui mừng hân hoan của Thiên Chúa, Đấng sinh thành nuôi dưỡng đời con người, khi chúng ta từ bỏ điều xấu xa tội lỗi sống theo điều thiện, theo giới răn Tình Yêu như Chúa muốn: “Triều Thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15:10).

 

62. Lạc lối - Lm Bùi Quang Tuấn

Theo một bản thống kê được đăng trên tờ Tablet (12/1996): hàng năm tại Anh quốc có khoảng 250 ngàn người thuộc mọi lứa tuổi bị mất tích, vì đủ thứ lý do. Một cơ quan bác ái chuyên về tìm người thất lạc được thành lập năm 1992, hoạt động liên tục 24 giờ một ngày, 365 ngày một năm, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng.

Riêng tại Hoa kỳ, mỗi năm, có khoảng 50 ngàn đứa bé được ghi nhận mất tích. Trong số đó, 5 ngàn em bị thiệt mạng trước khi được tìm thấy xác. Tại nhiều quốc gia, người ta không thể đưa ra con số chính xác về các vụ mất tích. Có nơi chính phủ chỉ thành lập các chương trình tìm kiếm xe mất cắp, các đồ vật bị đánh rơi, hay quà cáp thư từ bị giao sai chỗ, chứ không hề có chương trình tìm người thất lạc.

Nguyên nhân gây nên tình trạng mất tích hay thất lạc thì vô số, nhưng các chuyên gia xã hội tóm tắc vào ba điều căn bản sau đây: 1) bị bắt cóc bởi các cha mẹ không còn chung sống với nhau; 2) là nạn nhân của các tội ác bạo động trong xã hội; 3) bỏ nhà ra đi vì không tìm thấy hạnh phúc gia đình.

Dù khởi đi từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người ở lại một nỗi xót xa nuối tiếc. Của thất lạc càng quí thì niềm tiếc nuối càng da diết, càng thúc đẩy một cuộc kiếm tìm. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.

Nhớ nhung, xót xa, nuối tiếc, kiếm tìm, hân hoan, hạnh phúc… tất cả diễn tả tâm tình của một người Cha nhân từ đối với đứa con “bị lạc” nhưng nay lại “tìm thấy,” “bị chết” mà nay đã “phục sinh.” Nỗi niềm đó được trình bày trong ba dụ ngôn: “Con Chiên Lạc,” “Đồng Bạc Mất,” và “Người Con Hoang Đàng.”

Các dụ ngôn, với cấp độ đi lên, từ con vật đến đồng tiền rồi đến con người, và cấp số giảm xuống từ 100 đến 10 rồi còn 2, đã nói lên giá trị quí báu của từng con người trong đôi mắt yêu thương của Thiên Chúa. Đối với Ngài, ai cũng có một phẩm giá riêng biệt. Không phải vì con số 99 quá lớn mà chấp nhận bỏ đi số “1” nhỏ nhoi.

Với người giàu, một đồng nào có nghĩa lý gì, công đâu bỏ ra để bới tìm một đồng cho phí giờ, nhọc thân. Trên thế gian có biết bao nhiêu sinh linh, hà cớ chi phải lao đao vất vả vì một kẻ tội đồ. Chắc hẳn những người biệt phái nghĩ thế. Nhưng Chúa Giêsu nghĩ khác. Ngài ví mình như một người rất nghèo, thiếu thốn những tâm hồn sám hối, khao khát tìm lại những gì thất lạc để đưa về với nẻo chính đường ngay. Phải chăng vì “nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”, hay vì lòng Cha quá quảng đại bao dung mà thêm một tâm hồn lầm lạc trở về, thì lòng Ngài lại mừng vui sung sướng: “Bà con hãy chia vui với tôi… Bà con hãy vui mừng cùng tôi… Chúng ta phải ăn khao mới được” (Lc 15:6,9,23).

Những “con chiên lạc đàn” được ví như những chiếc tàu không bánh lái hay mất hướng đi. Hành trình lầm đường này có thể xảy ra do sự u mê của chính nó, nhưng cũng có khi vì không được quan tâm chỉ dẫn đúng mức.

Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con dê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng cũng chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tieng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu rít đầy lôi cuốn của xác thịt.

Sai lạc nào cũng cần chỉnh đốn. U mê nào cũng cần ánh sáng chiếu soi. Nhưng có thứ ánh sáng nào ấm đẹp cho bằng yêu thương. Vì có yêu thương mới có tìm kiếm chiên, cõng lên vai, đem về nhà. Có yêu thương, người ta mới ngóng trông, đón nhận, dung thứ, ăn mừng. Nhờ yêu thương mà chiên lạc thành chiên ngoan và con đi hoang lại tìm được mái ấm gia đình.

Cách đây không lâu, Nhật báo Người Việt có đăng một bản tin: Vào một ngày tối trời tháng Ba năm 1999, đang lúc xem TV trong nhà, bà Huỳnh P. T. Vân tại Bà điểm Hóc môn chợt nghe tiếng chó sủa dữ dội. Bà vội mở cửa xem thì khám phá một em bé trai sơ sinh trần trụi, đang nằm dưới hàng dậu trước nhà. Đứa bé dường như mới chào đời, cuống rốn còn nguyên chưa ai cắt, mình mẩy dính đầy cát, kiến đang bắt đầu bu lại, và đôi chân tím bầm.

Hốt hoảng, bà vội bế đứa bé vào nhà và tìm cách đưa ngay đến bệnh xá trong huyện. Sau khi được y tá cắt cuống rốn cùng chữa trị đôi chân, bà Vân đưa đứa bé về nhà, đặt tên Trần Minh Phúc.

Nhiều người dân trong vùng muốn nhận em làm con nuôi, thậm chí có người xin tặng bà Vân ba lượng vàng để có được cháu bé. Thế nhưng bà Vân vẫn không tha thiết với lời đề nghị kia. Bà tâm sự: “Nhìn mặt cháu tự nhiên thấy thương như con đẻ của mình. Thức với nó mấy đêm, thương lắm rồi, không xa được.” Nhà tuy nghèo nhưng bà khẳng định sẽ giúp cháu sau này ăn học đàng hoàng.

Xót xa làm sao khi người mẹ ruột đành đoạn đánh mất con mình trong mớ bung xung của áp lực xã hội, danh dự gia đình, và nỗi yếu đuối cá nhân. Nhưng cảm động và đáng phục biết bao khi có những con người bất chấp tình cảnh túng nghèo, vượt thoát áp lực của một xã hội chuyên lấy đồng tiền và quyền lực làm thước đo mọi giá trị, để làm nỗi bật phẩm chất cao quí của yêu thương. Nhờ tình thương, sự sống đã được bảo tồn và nâng cao.

Lắm khi vì tiếng gọi ngọt ngào của hưởng thụ, phóng túng, đam mê, ích kỷ mà người ta đã bán đứng nhân phẩm và bước vào con đường lầm lạc, nhưng nhờ tình thương và lòng quảng đại từ ái mà bao tâm hồn tìm được mái ấm và bước chân hoang can đảm trở về.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết gieo yêu thương trên mọi lối đi của cuộc đời, để tha nhân có thể gặp được dấu mà bước vào, và lần tìm về với Chúa là cội nguồn của yêu thương tha thứ. Chúng con tin rằng: đi theo Chúa, hạnh phúc sẽ không hề tắt; ở bên Ngài, hoan lạc sẽ chẳng hề phai bao gi.

 

home Mục lục Lưu trữ