Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 49
Tổng truy cập: 1378247
TIẾP NỐI NHỮNG BƯỚC CHÂN ANH HÙNG
Tiếp nối những bước chân anh hùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Chuyện xưa kể lại: ngày ấy, có một người tên là Ápram, cùng với vợ là Xarai và người cháu tên là Lot, sinh sống trong một nông trại ở một miền đất gọi là Kharan. Ông ao ước có một đứa con để nối dõi tông đường, nhưng chẳng được. Súc vật, đồng cỏ, mọi thứ có đầy đủ, thế mà ông Ápram vẫn cảm thấy thiếu thốn. Đời sống cứ thế qua đi, cho đến một hôm, ông Ápram nghe được một tiếng nói lạ lùng “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi. Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,1-3).
Bảy mươi lăm tuổi đầu rồi đâu còn trẻ gì nữa, làm sao có thể chịu đựng những nỗi vất vả, những hành trình; của cải cũng đầy đủ quá rồi, còn mong ước gì hơn nữa. Lại còn chuyện sẽ được cai quản một dân lớn, làm tổ phụ cả một đoàn dân đông đảo; ôi những chuyện xa vời quá, làm sao chấp nhận nổi?
Ápram phân vân, đắn đo suy nghĩ ông cảm thấy tiếng nói lạ lùng ấy đầy uy lực, thôi thúc ông phải thi hành. Và ông đã chấp nhận lên đường, bỏ lại quê cha, bỏ lại mồ mả tổ tiên, bỏ lại mảnh đất thân yêu, bỏ cả sự an toàn đang có ông chỉ mang theo những gì có thể, và dấn mình vào trong cuộc phiêu lưu liều lĩnh với muôn ngàn bất trắc, chưa xác định nơi nào sẽ định cư. Tất cả chỉ dựa trên một lời hứa, một lời hứa linh thiêng và bí nhiệm.
Apram đã không lầm. Những chi tiết của lời hứa đã được thực hiện. Ong đã được dẫn tới một miền đất phì nhiêu, ông đã có được nhiều của cải, chiên bò, gia súc, v.v… và có nhiều nhân viên giúp việc. Đời sống của ông bây giờ sung túc hơn xưa nhiều. Điều vui mừng hơn hết là Apram có được một cậu con trai, người con bấy lâu ông hằng mơ ước. Cuộc đời ông tưởng như không còn ước mong gì hơn nữa … (x. St 21,1-7).
Câu chuyện lại không chấm dứt ở chỗ này. Một lần nữa, tiếng nói lạ lùng năm xưa lại đến với ông, cũng đầy uy dũng và thúc bách: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Moria mà dâng nó làm lễ tòan thiêu” (x. St 22,1-2).
Sao? Lệnh truyền gì mà lạ lùng thế! Lần trước tiếng nói ấy đã cho ông biết: ông sẽ là tổ phụ của một dân lớn, con cháu ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển. Thế mà giờ đây lại được lệnh đem sát tế, đem giết đi đứa con độc nhất, đứa con nối dõi.
Apraham đã được đổi tên – cảm thấy như có một sức mạnh linh diệu thôi thúc ông, đồng thời dựa trên những kết quả từ lời hứa lần trước, ông quyết định thi hành.
Kết cuộc câu chuyện ra sao, chúng ta đã biết rồi, vào lúc Apraham sửa soạn thi hành lệnh truyền, thì đứa con đã được cứu thóat do một sự can thiệp lạ lùng …
Với những hành động can đảm và liều lĩnh ấy, kèm theo một lòng tín trung phó thác mãnh liệt, Apraham trở thành cha của tất cả những ai có niềm tin, trở thành con người khai mở cả một chặng đường, một hành trình nhiều đột biến nhưng thật phấn khởi, trở thành gương mẫu điển hình cho lòng vâng phục, cho hy vọng …
Một câu chuyện khác.
Cách đây hơn 2000 năm, hay có khi trước đó nữa, đã có những nhà chiêm tinh, căn cứ vào những điềm xảy ra trong vũ trụ để nghiên cứu những biến cố. Đó là công việc của những nhà giàu có, sẵn tiền của và thời giờ. Ở vùng đất xa xôi nọ, theo truyền thuyết, có ba nhà đạo sĩ cùng làm công việc ấy. Ngày nọ, ba người thấy xuất hiện trên bầu trời một vì sao lạ, một vì sao chưa thấy xuất hiện lần nào. Ba ông ngạc nhiên và bàn tính với nhau: Hẳn đây là một điềm báo trước một biến cố trọng đại. Nghiên cứu tìm tòi, ba ông được biết vì sao ấy ám chỉ một ông vua mới sinh. Vì vua ấy chắc là cao sang lắm! Nên mới có ngôi sao lạ. Ba ông đều muốn lên đường đến chiêm bái vị vua mới sinh. Ba ông quyết định từ bỏ cả của cải, đem theo những báu vật để dâng cúng vị vua mới sinh.
Và ba ông đi mãi, đi mãi, dưới sự hướng dẫn của ba sao lạ … Và đến đây chúng ta đã biết được phần cuối của câu chuyện rồi. Đó là ba nhà đạo sĩ đến kính bái Chúa Giêsu mới giáng sinh ở Bêlem (Mt 2,1-12).
Apraham, ba nhà đạo sĩ đã đi trên một con đường: con đường của tìm kiếm, con đường của đức tin, con đường dẫn tới tương lai, dẫn tới sự sống. Các vị đã chọn đi trên con đường đó với bao quả cảm, với bao nỗ lực và phấn đấu. Con đường ấy dẫn đưa các vị đến những thành đạt kỳ ảo nhất và cũng dễ hiểu nhất. Con đường ấy là con đường duy nhất, vì kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, chẳng còn con đường nào khác. Con đường ấy thật nhiều đột biến, thật nhiều thử thách và gian nan, đôi khi rất tăm tối, nhưng cũng đầy hứng thú và kỳ diệu …
Con đường đức tin hay hành trình chinh phục chân lý. Con đường dẫn con người đến những đỉnh cao, những thực tại siêu vời của cuộc sống …
Đó cũng là con đường của chúng ta, của mọi người. Mỗi người đều được mời gọi hướng về sự thật, hướng về vô biên. Con đường ấy cho cả hôm nay, hôm qua và ngày mai, không thể có một con đường nào khác. Chỉ có đức tin mới dẫn đến sự thật, chỉ có tín trung mới dẫn đến sự sống. Đó là chấp nhận phiêu lưu, chấp nhận mạo hiểm, như nhà leo núi chấp nhận những khó khăn để đạt được danh hiệu cao quý nhất của nhà chinh phục.
Chân lý – sự sống. Đó là nguyên lý cao nhất. “Phải sẵn sàng hy sinh những gì yêu quí nhất để theo đuổi cuộc tìm kiếm ấy, dù có phải hy sinh cả cuộc sống” (Gandhi).
Mãi mãi đi trên hành trình của Apraham, của ba nhà đạo sĩ, hành trình của lòng tin và hy vọng.
58. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Chỉ hiểu biết mà thôi, chưa đủ
Sau khi Đức Giêsu giáng sinh tại hang đá, các thiên thần đã vang tiếng hát tung hô, và các người chăn chiên đã kéo nhau đến thờ lạy Người. Hai sự kiện này có chung một mục đích là diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, nhất là cho người nghèo. Sau này, chính Đức Giêsu quả quyết với những người được ông Gio-an Tẩy Giả sai đến: ""người nghèo được nghe Tin Mừng" "(Mt 11,5). Đức Giêsu đến trần gian với sứ mệnh là bày tỏ cho người nghèo, cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương và bênh vực họ.
Thế thì, tại sao trình thuật Tin Mừng về ba nhà đạo sĩ lại được sử dụng để mừng kính việc Đức Kitô tỏ mình ra lần thứ nhất? Hai sự kiện trên không đủ ư? Các đạo sĩ là những người trí thức, họ có mặt tại hang đá với mục đích gì? Họ đem những tặng phẩm quý giá như vàng, nhũ hương và mộc dược, những tặng phẩm vốn dành cho bậc vua chúa, đến hang đá để làm gì?
Thật ra, đây chính là một cuộc tỏ mình ra của Đức Kitô, một cuộc Hiển Linh. Kiến thức hiểu biết, sự giàu sang của các nhà đạo sĩ hoàn toàn tương phản với sự trần trụi, yếu ớt của vị vua mà họ đến thờ lạy.
Để đến được Bê-lem, các nhà đạo sĩ đã phải từ bỏ tất cả. Họ vốn là những bậc quyền thế, hiểu nhiều biết rộng và có nhiều của cải, nhưng họ đã từ bỏ mọi sự để lên đường. Họ là những người hiểu biết, nhưng lại lên đường theo một ánh sao, một ánh sáng từ bên trong, một lời mời gọi. Đây cũng là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô.
Sau cuộc gặp gỡ với vua Hê-rô-đê, người đang nắm quyền tại chỗ, và với những người thông thạo về Lề Luật, các nhà đạo sĩ đã ra đi, chẳng thỏa mãn, nếu không muốn nói là thất vọng. Họ đã tìm lại được bình an và niềm vui khi gặp lại ngôi sao, chứ không phải do những hiểu biết trong sách vở hay những lời dối trá của quyền bính. Từ đó, họ đã thay đổi cái nhìn, họ đã sám hối. Họ khám phá ra rằng quyền hành đích thực nằm trong tay con trẻ vừa mới giáng sinh tại hang đá Bê-lem: đây cũng là cuộc tỏ mình ra của Đức Kitô, một cuộc Hiển Linh.
Xưa nay, người ta vẫn muốn trình bày niềm tin vào Đức Giêsu Kitô tựa như lòng tin của người dân quê mùa, chất phác, ngược hẳn với niềm tin do hiểu biết, suy tư... Theo cách nhìn này, Tin Mừng dường như chỉ dành cho những người ngu dốt, đần độn.
Đúng ra, đây chỉ là một vấn đề giả. Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô không phải là một hoạt động dựa trên chỉ số thông minh, nhưng do thái độ sẵn sàng đón tiếp của tâm hồn. Tin Mừng luôn được loan báo cho mọi người, không ai bị loại trừ, thế nhưng, chỉ những ai có tâm hồn rộng mở mới có thể hiểu được.
Những người nghe được Tin Mừng là những người khát khao tìm kiếm và sẵn sàng cất bước lên đường. Những người cứ nghỉ yên trong kiến thức của mình, trong quyền hành và sự giàu có của mình, đó là những người điếc.
Món quà đẹp nhất và quý giá nhất các đạo sĩ đem đến để tặng Đức Giêsu, chính là con đường họ đã đi, chính là niềm tin vào ngôi sao, chính là thái độ nhận ra mình thiếu sót và yếu đuối, mặc dù họ đang có rất nhiều thứ.
Khởi đầu từ những người nghèo
Đọc lại những trình thuật Tin Mừng về cuộc giáng sinh của Đức Kitô, người ta thấy được một chi tiết khá thú vị: những người nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế là những người chăn chiên, cụ già Si-mê-on, các đạo sĩ. Ngoại trừ ông cụ Si-mê-on, những người kia không phải là những người được chọn trước, và cũng không chuẩn bị gì. Ngược lại, những người không nhìn nhận Đức Giêsu lại là những nhà thông thái, những người được lựa chọn trước và được chuẩn bị rất kỹ để đón tiếp Đấng Cứu Thế: chính họ đã chỉ cho các đạo sĩ biết rõ về nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh.
Tại sao thế?
Những nhà thông thái biết quá nhiều, nhưng chỉ biết thôi chứ không hiểu. Ngược lại, những người chăn chiên và các đạo sĩ tuy không biết nhiều nhưng họ có khả năng hiểu, vì họ sẵn sàng và khao khát kiếm tìm. Sau này Đức Giêsu sẽ nói: ""Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mặc khải cho những người bé mọn." "(Mt 11,25)
Có học thức, đó chưa phải là điều kiện cần thiết để hiểu biết những mầu nhiêm về Thiên Chúa, còn một điều khác cần hơn, đó là phải nhận rằng mình còn thiếu sót. Tính kiêu ngạo là một thứ màn tối dầy đặc che khuất ánh sáng, còn thái độ khiêm tốn là cửa ngõ để đón nhận ánh sáng.
Ngoài ra, khi thuật lại câu chuyện các đạo sĩ từ phương Đông tìm đến với Đức Giêsu, tác giả Mát-thêu muốn nói đến ơn gọi phỗ quát của Tin Mừng. Các nhà lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem đã từ khước, không nhìn nhận Đấng Cứu Thế, thì đây các dân ngoại lại đón tiếp Người. Ngay từ giai đoạn đầu trong cuộc sống của Đức Giêsu, sức mạnh truyền giáo của giao ước mới đã được bày tỏ, và sẽ lan mãi đến toàn thế giới. Đến cuối sách Tin Mừng, tác giả Mát-thêu ghi lại huấn lệnh cuối cùng của Đấng Phục Sinh: ""Anh em hãy đi đến với muôn dân... để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy." "(Mt 29,19-20). Những dân ngoại ấy hiện đã có mặt tại hang đá, qua hình ảnh ba đạo sĩ từ phương Đông đến.
Như thế, Tin Mừng được trao tặng cho tất cả mọi người, bởi vì họ đều được Thiên Chúa yêu thương trong Đức Kitô. Mọi người đều được mời đến gặp Đức Giêsu tại hang đá, miễn là họ có được tâm hồn nghèo khó và thái độ sẵn sàng. Và từ hang đá, mỗi người cũng nhận được lệnh đem Tin Mừng đến mọi miền của thế giới, của tâm hồn con người.
Các đạo sĩ của hôm nay
Các đạo sĩ của ngày hôm nay là ai? Ngày nay, ai là những người từ xa đến để nhận ra Đức Giêsu ở giữa những người nghèo?
Các đạo sĩ của thế kỷ XXI có thể là những người chúng ta đã gặp đây đó. Họ là những người nam cũng như nữ, biết bỏ lại kho tàng của mình (văn minh, hiểu biết...) để phục vụ những người nghèo, nhất là những trẻ em. Họ là những người đã đi theo một ánh sao, đã nhận ra rằng người nghèo chính là hình ảnh của Đức Kitô. Họ là những người luôn có thái độ sẵn sàng đón tiếp người khác, và biết sử dụng những điều kiện mình đang có để đem lại niềm vui cho người khác. Họ là những người sung sướng khi được hưởng những tiện nghi trong đời sống; nhưng họ cảm thấy hạnh phúc hơn, sung sướng hơn khi từ bỏ những tiện nghi của riêng mình để làm cho người khác được sống xứng đáng hơn.
Những con người như thế, chúng ta gặp rất nhiều. Đời sống của họ là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô, hay nói cách khác, Đức Kitô dùng cuộc đời của họ để bày tỏ cho thế giới về chính Người.
Phần chúng ta, chúng ta sẽ đem gì đến trước hang đá của Đức Giêsu? Đời sống của chúng ta có phải là sự diễn tả về Đức Giêsu? Đời sống của chúng ta có phải là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô?
Những câu hỏi như thế được nêu lên không phải chỉ một lần. Mỗi năm, vào mùa Giáng Sinh, chúng ta lại được nhắc nhở về sứ điệp ấy. Mỗi năm chúng ta lại bắt đầu lên đường bởi vì nhận thấy rằng có nhiều lần chúng ta đã bỏ dở hành trình, đã từ chối yêu mến.
Hãy dành một phút thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện trước hang đá. Hãy cùng với các nhà đạo sĩ lên đường tìm đến hang đá, và phục lạy. Hãy dâng cho Con Trẻ món quà quý giá nhất là chính đời sống của chúng ta.
59. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo bài Tin Mừng, những kẻ gặp được Đức Giêsu là người có đạo hay ngoại đạo? Tại sao? Bạn có rút ra được kết luận gì không?
2. Có Kinh Thánh, giáo huấn của Chúa và Giáo Hội trong tay, điều đó đã đủ để ta gặp Chúa chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Trong thời đại này, ta có thể tìm gặp Chúa ở đâu? trong nhà thờ? trong phụng vụ? trong các bí tích? hay nơi những người anh em chung quanh ta? Theo tinh thần của Tin Mừng, thì Chúa muốn ta gặp Ngài ở đâu hơn?
Suy niệm
1. Người ngoại cũng được vào Nước Trời
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ: “Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ"“ (Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay mạc khải một sự thật hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy chính những người Do Thái – mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng tặng vật cho Ngài lại là dân ngoại từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngoại: “Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13,46). Và lịch sử cho thấy dân ngoại vô số người đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). Đức Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai người con kẻ nói vâng người nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).
2. Bài học cho người Kitô hữu hôm nay
a) Có Kinh Thánh và giáo lý trong tay… không đủ!
Điều trớ trêu trong bài Tin Mừng hôm nay là người Do Thái – đặc biệt những tư tế và luật sĩ – có Kinh Thánh trong tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc nào họ cũng tỏ ra mong chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu Thế – các đạo sĩ và mục đồng – lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Điều ấy chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ sao?
Người Kitô hữu hôm nay có đủ mọi phương tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội (các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học, tu đức, luân lý, rồi các bí tích, các giờ phụng vụ… Nhưng hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại “y trang” như cách đây hơn 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái – cụ thể là các tư tế và luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như vậy.
b) Điều cốt yếu là tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi người Kitô hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có giúp chúng ta đến gặp Chúa hay không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho chúng ta hay không. Chúng ta đừng an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo đức truyền thống cho tốt là bảo đảm vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13: 34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
c) Tình yêu phải được thể hiện thành hành động thật sự
Giấy thông hành để vào Nước Trời chính là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực. Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là phải được thể hiện thành hành động. Nếu “đức tin không có hành động thì là đức tin chết” (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình yêu không có hành động là tình yêu giả hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta không thể vào Nước Trời được.
Nhưng làm sao ta dám nói là ta có tình yêu đích thực đối với anh em mình khi họ lâm nạn mà ta lại khoanh tay đứng nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được khi ta thấy rõ ràng anh em mình đang chịu bất công mà ta lại không chịu lên tiếng hay can thiệp, nhất là khi tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy anh em mình chịu bất công tỏ tường mà vì muốn yên thân ta lại làm chứng với mọi người rằng đó không phải là bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao được? Nếu cách hành động của ta là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập tục truyền thống trong tôn giáo một cách hoàn hảo, không chê vào đâu được, chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước Trời.
d) Cần cảnh giác với thứ đạo đức hương nguyện, thiếu việc làm
Tệ hơn nữa, là khi chính chúng ta đã không chịu thể hiện tình yêu, mà lại cổ võ một thứ đạo đức không việc làm, luôn luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng thánh lễ… mà không hề nhấn mạnh bổn phận phải dấn thân cho anh em, phải quan tâm mưu cầu hạnh phúc cho những người chung quanh, biến cải xã hội nên công bằng và tốt đẹp hơn, thì phải chăng chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng chúng ta đang biến tôn giáo của chúng ta thành “thuốc phiện” thật sự? Chúng ta quên rằng “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23). Và có thể chúng ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi khác vì những giáo huấn của ta khác hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giêsu nói: “Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện tình yêu với tha nhân hơn khi họ vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại nghe lời ta chỉ biết quan tâm tới những tập tục đạo đức cổ truyền?
Trái lại, những người không có Kinh Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của Giáo Hội, không có bí tích, nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy thông hành để vào Nước Trời. Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là đối tượng ưu tiên của Nước Trời, là những kẻ lúc nào cũng nói về Nước Trời mà không hành động cho Nước Trời! Thánh Phao-lô nói: “Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm 2,13), và “nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao” (Rm 2,26). Bài Tin Mừng hôm nay và nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy viễn cảnh ấy! Và đó cũng là một lời cảnh cáo chúng ta!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi chúng con làm chuyện hết sức khờ dại. Chúng con luôn luôn đề cao đạo của mình trước mặt mọi người, nhưng chính chúng con lại chẳng sống tinh thần đạo ấy. Đang khi có nhiều kẻ ngoại giáo lại thật sự sống được tinh thần ấy. Việc đề cao tôn giáo của chúng con, tự nó là một điều rất tốt, nhưng nhiều khi lại xuất phát từ một khuynh hướng kiêu ngạo tập thể chứ không phải là tình yêu. Vì nếu nó xuất phát từ tình yêu đích thực, thì chúng con đã phải thể hiện tình yêu ấy bằng sự dấn thân đích thực cho những anh em đang chịu khốn khổ của mình. Sự im lặng trước bất công, sự thụ động trước cảnh khốn cùng của đồng loại chứng tỏ chúng con chưa có tình yêu đích thực. Vì thế, việc đề cao tôn giáo của chúng con chỉ là một hình thức kiêu căng tập thể, là điều Cha rất ghét. Xin cho chúng con biết sống đích thực tinh thần đạo của mình trước khi đề cao nó, để sự đề cao ấy có giá trị đích thực làm sáng danh Cha. Amen.
60. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?
2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái – với bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng – đã có thái độ nào trước tội ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.
Suy Niệm
1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giêsu, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giêsu nói: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: “Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta” (Gr 29,13); “Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta” (Cn 8,17).
2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem
Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giêsu nói: “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” (Mt 7,24.26). “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21); “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17); “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất “vệ đường”, đầy “đá sỏi”, đầy “bụi gai”, khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3. Bài học cho những ai đang theo chính đạo
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: “Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ” (1Cr 9,27).
Chuyện các nhà chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm quyền
Nói tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh”. Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những “chiếc ghế” của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng “bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến” (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam