Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 59

Tổng truy cập: 1379785

TIN CÓ CHÚA Ở CÙNG

Tin có Chúa ở cùng

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Cao Vũ Nghi, CM)

Trại tù Humaita ở Ba Tây là một trại tù hơi khác thường. Công việc cai quản gần bốn trăm tù nhân thay vì được trao cho các nhân viên chính phủ, thì lại do một số Kitô hữu đã tình nguyện lãnh nhận công tác phục vụ những tù nhân này. Ngoài ra, còn một điều khác thường thứ hai và đáng kể hơn. Mỗi trại tù thường có phòng biệt giam để giam giữ những tội phạm ngang bướng. Tại trại Humaita, phòng biệt giam này ngày nay chỉ có một “tội phạm.” Sau cánh cửa sắt, là một bàn thờ, với hoa tươi, một tượng Thập Giá, và một biểu ngữ: “Estamos juntos” (chúng ta cùng có nhau).

Người “tội phạm” biệt giam đây chính là Chúa Giêsu, và cây thánh giá của Người là một nhắc nhở hùng hồn cho mọi tù nhân rằng Chúa Giêsu đã chịu án tù cho mọi người và Người vẫn luôn ở đó với họ. Vì nhận ra tình Chúa yêu thương họ mà các tội phạm tại Humaita đã chấp nhận được cảnh tù đầy của họ.

Hai ngàn năm trước đây, khi Mẹ Maria đến thăm bà chị họ Isave, bà này đã chúc khen Đức Mẹ vì Đức Mẹ đã tin rằng những điều Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đọc trong Thánh Kinh, Đức Mẹ biết Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Khi Tổng thần Gabrien đem tin mừng đến cho Đức Mẹ, với niềm tin vững vàng vào lời Chúa, Mẹ đã thưa lên lời xin vâng: “Này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lk 1:38). Với niềm tin này của Mẹ Maria, Chúa đã nhập thể làm người để cứu nhân loại thoát khỏi gánh nặng của tội lỗi. Chúng ta đang gần kề giây phút mừng kỷ niệm ngày Chúa đến trong Đại Năm Thánh Cứu Độ. Nhưng trong khi cùng với toàn thể nhân loại hân hoan mừng ngày rất thánh này, chúng ta cần dừng lại để tự hỏi mình xem Chúa Kitô đã đến ngự trị trong lòng tôi chưa?

Đêm Giáng Sinh thường được gọi là đêm an bình. Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã đến để ban lại cho nhân loại sự bình an hạnh phúc mà nguyên tổ đã đánh mất. Nhưng tôi đã được hưởng sự bình an đó chưa? Hay là lương tâm vẫn còn bị đè nặng bởi tội lỗi, bởi những bất công, hận thù, chia rẽ… Nếu vậy, thì ích gì cho tôi, nếu Chúa đến trần gian để ở với con người, để cứu độ con người, và để ban bình an cho mọi người, nhưng riêng tôi lại không được dự phần?

Khi có Chúa ở cùng, có thể là Chúa sẽ không cất đi mọi đau khổ chúng ta đang gặp phải trong cuộc sống. Điều Chúa hứa là Người sẽ ban cho chúng ta được sự bình an trong tâm hồn, sẽ chúc phúc, và sẽ ở bên chúng ta để phù trì chúng ta trong mọi giây phút của cuộc đời. Khi sinh ra trong cảnh bần cùng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, và sau cùng chết khổ nhục trên thập tự giá, phải chăng là Chúa muốn nói trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời, Chúa luôn ở bên để chia sẻ kiếp sống làm người với chúng ta. Điều quan hệ là chúng ta có dám tin là Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của mình không? Có dám tin là Chúa có đủ quyền năng để cứu chuộc chúng ta, và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh cùng quẫn mà chúng ta đang gặp phải hay không? Nếu có được niềm tin đó, thì cũng như những tù nhân tại Humaita, cho dù chúng ta vẫn còn bị giam hãm bởi những bất công trong xã hội, những hận thù ghen ghét, chúng ta vẫn tìm được sự bình an trong tâm hồn.

Vậy trong những giây phút còn lại trước giờ phút hồng phúc của đêm nay, chúng ta hãy xin Đức Mẹ ban cho chúng ta lòng tin của Đức Mẹ. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta để đón tiếp Chúa đến với tâm hồn mình. Mẹ Maria có phúc vì đã tin lời Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế sẽ được thực hiện, và như lời Tổng thần Gabrien, Mẹ có phúc vì Mẹ có Chúa ở cùng Mẹ. Xin Mẹ ban cho chúng ta cũng có được niềm tin đó, để chúng ta cũng được tiếp rước Chúa đến với tâm hồn chúng ta. Có vậy, chúng ta mới cảm nghiệm được đêm Giáng Sinh thực sự là Đêm Bình An.

 

39. Mẹ Maria.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương rất tối tân tại Anh quốc. Mọi căn phòng đều khang trang, sáng sủa và được trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng với những tiện nghi, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá, nhân viên làm việc rất nhã nhặn và lịch sự.

Nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ đang hướng dẫn mẹ đi thăm:

– Thưa bác sĩ, tại sao các bệnh nhân, cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?

Câu trả lời của ông bác sĩ rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn buồn:

– Thưa mẹ, vì họ luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.

Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào nỗi chờ mong của nhân loại. Thực vậy, sau khi nguyên tổ phản bội, Thiên Chúa đã hứa ban cho con người một Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người.

Trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để duy trì lời hứa thuở ban đầu. Và hình ảnh Đấng Cứu thế mỗi ngày một thêm rõ nét.

Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa. Và nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.

Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.

Với lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin, lời hứa thuở ban đầu đã trở thành sự thật. Thiên Chúa đã đến với con người để giải thoát họ khỏi án phạt của tội lỗi. Thế nhưng, trước khi đem Chúa đến cho nhân loại, thì ngày hôm nay bằng hành động thăm viếng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho nhà bà Êlisabéth, khiến cho Gioan được nhảy mừng.

Mẹ đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho người Kitô hữu, bởi vì Mẹ không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà còn đem Chúa đến cho người khác.

Noi gương Mẹ Maria, bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta cũng hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó cũng chính là sứ điệp chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Giáng sinh này.

 

40. Chia vui sẻ buồn

Báo tuổi trẻ cuối tuần ra ngày 22/ 10/ 2006 có đăng bài của Vũ Bình với nhan đề “Người thích làm từ thiện”. Bài này đề cập đến một người có tấm lòng nhân hậu cao cả. Đó là chị Ngụy Thị Phương Thảo. Từ một người chân lấm tay bùn, khốn khổ nhưng sau thời gian cần mẫn và gặp thời vận may vợ chồng chị đã trở nên khá giả. “Vợ chồng chị hiện đang sở hữu hàng chục miếng đất và nhà cho thuê cùng hàng chục chiếc taxi….”.

Chị Thảo là người biết mở ra cho anh chị em đồng loại. Chị sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khốn khổ. Cách đặc biệt, sau vụ tai nạn thương tâm của một đoàn cán bộ đi cứu trợ, chị đã không ngần ngại tặng một căn nhà trị giá hơn nửa tỉ đồng cho vợ con anh Trần Thanh Liêm. Anh này là một trong những người đã chết trong vụ tai nạn đó. Quả thật chị Thảo là một mẫu gương đáng tuyên dương.

Như thế, là người có đức tin chắc hẳn qua mẫu gương này ít nhiều gì cũng để lại trong ta nhiều suy nghĩ. Từng giờ, từng phút và từng giây ta đã nhận biết bao ơn lành từ Chúa cũng như từ nhiều người khác. Thử hỏi ta có được tinh thần biết mở ra như chị Thảo chăng? Trong các kinh Giáo hội dạy có kinh “Thương người có mười bốn mối”. Thử hỏi kinh ấy có được thấm nhuần trong ta chưa?

Tin mừng hôm nay Thánh Luca cho biết Thánh Gioan đã nhảy lên vui mừng khi được Đức Mẹ đến viếng thăm. Sự kiện đó cho thấy Đức Mẹ đã biết đem niềm vui đến cho gia đình Bà Elisabeth. Như ta biết đường đi ở xứ Do thái xưa kia không phải dễ đi mà nhiều núi non hiểm trở. Cho nên, chắc là Đức Mẹ đã phải hy sinh nhiều lắm. Thánh Luca còn cho biết: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” (Lc 1, 56)

Khi có đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm ta sẽ dễ dàng nhận ra được nhu cầu của anh chị em đang sống quanh ta. Có người đã nói: “Không ai giàu đến nỗi không cần đến sự giúp đỡ của người khác và không ai nghèo đến nỗi không có gì cho anh em mình.” Hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho ta có được đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm biết mở ra.

Đồng thời, ta cũng hãy noi gương Đức Mẹ và chị Thảo để biết sống cho anh chị em theo khả năng của mình. Bởi lẽ, niềm vui được chia sẻ được nhân đôi và nỗi buồn chia sẻ vơi một nửa. Những việc làm ấy chắc chắn sẽ là những cọng rơm ấm áp mà chúa Hài Đồng đang chờ đợi ta.

 

41. Niềm vui trong Thánh Thần.

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.

Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.

Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.

Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.

Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.

Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.

Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.

Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.

Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.

Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.

Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
  2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
  3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?

 

42. Cùng vui với Mẹ – Lm. Phạm Quốc Hưng

Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay và cũng là Chúa Nhật cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh, Hội Thánh đặt trước mắt chúng ta hình ảnh Mẹ Maria đi thăm viếng Bà Êlizabeth mùa Vọng, như mẫu gương đức tin tuyệt hảo để chúng ta chiêm ngắm và noi theo; nhờ đó, chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui linh thánh của Mẹ trong dịp đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh cũng như trong suốt đời sống đức tin.

Để chúng ta có thể có tầm nhìn sâu rộng hơn về niềm vui lớn lao nơi tâm hồn Mẹ Maria, chúng ta không dừng lại ở trình thuật Đức Mẹ thăm viếng Bà Êlizabeth, nhưng ở đây chúng ta sẽ cùng học theo Chân Phước Têrêsa Calcutta chiêm ngắm và chia sẻ các niềm vui của Mẹ nơi cả năm mầu nhiệm mùa vui của Kinh Mân Côi. Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, khi chúng ta suy ngắm các mầu nhiệm Kinh Mân Côi là lúc chúng ta cùng chiêm ngắm Chúa Giêsu với đôi mắt của Đức Mẹ và yêu mến Chúa Giêsu với trái tim của Đức Mẹ. Đó là cách thức yêu mến Chúa tuyệt hảo, vì không ai hiểu biết, yêu mến và kết hợp với Chúa Giêsu cách tuyệt hảo hơn Đức Mẹ.

Trước hết, trong trình thuật thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Mẹ đã đón nhận niềm vui Thiên Chúa ban tặng cho Mẹ qua hai tiếng “Xin Vâng”. Nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã vui mừng đón nhận, tìm hiểu, yêu mến và đem hết tâm hồn và cả cuộc sống để vâng phục Thánh Ý Chúa thể hiện qua Lời Chúa do thiên thần chuyển đến cho Mẹ. Tinh thần vâng phục thánh ý Chúa của Mẹ ở đây đã làm cho Mẹ hoàn toàn nên một tinh thần với Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng khi nhập thể trong lòng Mẹ đã tuyên ngôn: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi mới nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa”, như tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái ghi nhận trong Phụng Vụ hôm nay (Dt 10:5-7).

Tinh thần vui lòng vâng phục thánh ý Chúa chính quy luật duy nhất trong đời sống của chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng như tất cả các thánh. Đó là lý do Thánh Giêrađô Majella đã luôn sống theo tâm niệm: “Thánh ý Chúa là niềm vui của đời con, con muốn điều Chúa muốn, muốn như Chúa muốn, muốn khi Chúa muốn và muốn vì Chúa muốn.” Vì vậy, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui linh thánh khi biết noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria để hết lòng vâng phục thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.

Thứ hai, nơi trình thuật Đức Mẹ khi thăm viếng Bà Êlizabeth, niềm vui hay hạnh phúc của Mẹ được gói trọn trong lời chúc tụng của Bà Êlizabeth khi được chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc 1:45). Mức độ hạnh phúc đích thực của chúng ta được đo lường bằng mức độ của đức tin sống bởi lòng mến nơi chúng ta. Vì vậy, tất cả cố gắng kiếm tìm hạnh phúc và niềm vui đích thực là cùng đích cuộc sống của chúng ta phải hướng tới việc gìn giữ, canh tân và phát triển lòng tin và tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Chính nhờ đức tin sống động này mà chúng ta được kết hợp với Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng ta; nhờ đó, chúng ta sẽ được vui mừng.

Thứ ba, nơi trình thuật Giáng Sinh với hình ảnh Mẹ Maria chìm đắm trong việc chiếm ngắm thờ lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ là được thờ lạy Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể do chính Mẹ sinh ra. Với đức tin sống động, chúng ta ngày nay cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ khi chiêm ngắm thờ lạy cùng một Chúa Giêsu thực sự hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta chỉ có được niềm vui này khi chúng ta thực sự tin nhận Chúa Kitô và sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Vì chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:23).

Thứ tư, nơi trình thuật Đức Mẹ theo luật Môsê tiến dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ được diễn tả qua việc Mẹ vui lòng hiến dâng Chúa Giêsu đúng theo luật Chúa. Lời ngôn sứ Simêon cho biết một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ báo trước việc Mẹ sẽ phải đón nhận nỗi thương đau vô tận khi phải hy sinh Con Một yêu quý của Mẹ làm Của Lễ Chuộc Tội cho nhân loại trên Đồi Canvê sau này. Ở đây Mẹ cho chúng ta thấy niềm vui đích thực phải là hoa trái của tình yêu đòi hỏi sự quảng đại dâng hiến và hy sinh bỏ mình trọn vẹn.

Cuối cùng, nơi trình thuật Đức Mẹ tìm lại Chúa Giêsu trong Đền Thờ sau ba ngày “mất Chúa”, niềm vui của Mẹ ở đây như báo trước niềm vui Mẹ sẽ đón nhận khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh sau này. Niềm vui ơn cứu độ đã được Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, cho những ai bền đỗ đến cùng trong niềm tin, cho những ai biết đón nhận ơn cứu độ qua việc tìm lại Chúa sau khi “mất Chúa” vì tội lỗi bằng thái độ khiêm nhường sám hối và tin vào Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta sẽ góp phần làm canh tân và gia tăng niềm vui này của Mẹ khi chúng ta cố gắng bền đỗ và thăng tiến trong đời sống đức tin, mỗi khi chúng ta sám hối trở về cùng Chúa sau mỗi lần lìa xa Chúa vì tội lỗi, mỗi khi chúng ta góp phần giúp anh chị em chúng ta tìm gặp Chúa hay trở về với Chúa.

Chỉ còn ít ngày nữa chúng ta sẽ cử hành Đại Lễ Giáng Sinh-Đại Lễ của Ánh Sáng đem lại Sự Sống và Niềm Vui. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ dọn lòng mừng lễ với tinh thần quyết tâm thực thi thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy gẫm và thực hành Lời Chúa; nỗ lực sống đức tin qua việc cầu nguyện liên lỉ; khao khát tìm đến thờ lạy và kết hợp với Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể; quảng đại trong việc thực hành việc hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ tha nhân; và trung tín trong bổn phận hàng ngày và thành tâm sám hối sau mỗi lần sa ngã phạm tội. Được như thế, niềm vui của mùa Giáng Sinh sắp tới sẽ thật trọn vẹn và sẽ mãi lớn lên trong cuộc đời chúng ta.

Và rồi cũng như Mẹ Maria đã đem sự hiện diện Chúa ngự trong Mẹ đến cho gia đình Thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta sẽ trở thành những con người biết trao tặng niềm vui có Chúa cho tha nhân.

Lạy Mẹ Maria là Mẹ của tình yêu mỹ diệu và niềm vui linh thánh, xin Mẹ cho chúng con biết tìm được niềm vui linh thánh qua việc thực tâm yêu mến và thực thi thánh ý Chúa, và quên mình để mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.

 

43. Lý do nào để nhảy mừng?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội; nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ, cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và khi Hài Nhi – Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại, và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình, chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không? “bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng lên”.

Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự – thường là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng, nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi, dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?

Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!

Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi, khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình, Giêsu – tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ – Tin Mừng cứu độ; Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này, truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin Mừng cứu rỗi.

Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!

Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu độ. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ