Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1378720

TINH FYÊU DẪN ĐẾN ĐỨC TIN

Tình yêu dẫn đến đức tin (Ga 20,1-9).

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ của Radio Veritas Asia)

Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.

Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".

Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.

Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.

Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.

Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.

Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?

Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.

Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.

Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.

Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.

Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.


 

51. Chúa Nhật Phục Sinh

Chúng ta đã trải qua những ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, chịu chết để cứu chúng ta. Chúa là Đấng vô tội nhưng đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Chúa đã chết vì tội của chúng ta. Chúa đã chết thay cho chúng ta. Nếu Chúa không chết thay cho chúng ta thì chúng ta sẽ phải chết.

Nhưng để cứu chúng ta Chúa Giêsu đã không dừng lại ở cái chết, Chúa đã chiến thắng sự chết và Chúa đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Hôm táng xác Chúa vào trong huyệt đá, vì gần đến ngày Sabát nên việc ướp xác Chúa chưa hoàn tất, chỉ mới làm sơ xài thôi; nên qua ngày Sabát, bà Maria Madalêna đã vội vả ra mộ Chúa từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác Chúa.

Khi đến nơi bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ từ lúc nào rồi, nhìn vào ngôi mộ trống, không còn thấy xác Thầy nữa, Bà liền chạy tìm và gọi ông Phêrô cùng người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến cách đặc biệt. Nghe vậy hai môn đệ Chúa Giêsu chạy đến, có lẻ họ nghĩ rằng ai đó đã lấy mất xác Thầy mình rồi. Chạy đến nơi mộ Chúa, các ông đã quan sát và thấy rõ mọi việc, điều đó làm các ông phân vân.

Tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, nhìn vào ngôi mộ trống các ông thấy: " các dây băng nhỏ xếp để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ ". Ai đã trộm xác Thầy chăng? Nếu có kẻ nào đó trộm xác Thầy thì sao các dây băng và vải liệm lại xếp ngay ngắn và gọn gàng như thế. Kẻ trộm xác Chúa là kẻ có ý đồ xấu xa, làm sao lại có thể xếp các dây băng và vải liệm gọn gàng như thế, các thứ này vốn là đồ bỏ đi thì đâu cần phải làm thế đâu. Có một điều gì đó mà các môn đệ Chúa chưa hiểu nên các ông phân vân.

Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và vải khăn liệm là những dấu chỉ hổ trợ cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh của Hội Thánh Công Giáo chúng ta. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp Hội Thánh Công Giáo chúng ta luôn tồn tại với bao thay đổi không ngừng của lịch sử nhân loại.

Điều quan trọng và ích lợi cho chúng ta hơn cả là làm sao chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh trong đời sống làm kitô hữu của chúng ta đây?

Chúa đã chết cho chúng ta, nhờ đó chúng ta không phải hư mất đời đời. Chúa đã sống lại để ban sự sống mới cho chúng ta. Sự sống đó sẽ dẫn chúng ta về quê thật của mình là Nước Trời. Phần Chúa, Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta tất cả rồi! Còn phần chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào trong việc đón nhận sự sống đời đời mà Chúa đã ban cho chúng ta?

Để đón nhận sự sống đời đời, chúng ta cần phải " chết đi " mỗi ngày với những tánh hư tật xấu, những ràng buộc của tội lỗi, những bất xứng trong đời của chúng ta đối với Chúa, đối với tha nhân và với bản thân của mình nữa.

Đồng thời chúng ta cần phải trao dồi những điều tốt đẹp, học hỏi các nhân đức, thấm nhuần những lời dạy của Chúa Giêsu, rập khuôn mẫu đời sống mình theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Làm cho đời sống mình mỗi ngày một sung mãn, phong phú và làm cho đời sống anh chị em chung quanh cũng được sung mãn, phong phú trong sự sống mới mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta.


 

52. Phục Sinh.

Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.

Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.

Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.

Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.

Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.

Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?

Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.

Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.

Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.


 

53. Hãy khai phóng tâm trí (Mc 16,1-8).

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Trên lãnh vực bình giải uyên bác, bốn thiên ký sự của bốn Phúc Âm cùng thuật về sự Chúa sống lại, những ký ức ấy mới đây là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, những tập nghiên cứu hay nhất đều đưa đến một sự khơi sâu đức tin. Tường trình ở đây về công cuộc nghiên cứu đó, là một việc không làm được. Ý định của Giáo Hội khi dạy đọc Phúc Âm trong phần phụng vụ thánh lễ là để xếp đặt một sự gặp gỡ sống động giữa tín hữu và Chúa Giêsu. Thế mà Phúc Âm cốt để loan báo trước hết là cho người nghèo. Vì vậy chúng ta sẽ cố gắng có được một não trạng của kẻ nghèo khó để đọc những thiên ký sự về Chúa sống lại. Sự nghèo khó, nói đến ở đây, không có nghĩa là ngu dốt hoặc ngây ngô khờ dại. Nghèo, nghĩa là dẹp bỏ hết những cái gì kềnh càng vướng vít của sự giàu có, dù là giàu có về kiến thức, để ao ước của cải quý trọng nhất là sự gặp gỡ Đức Kitô sống động. Chúng ta hãy vượt lên trên những phân tích, giả thuyết v,v… tuy không dám chê những công trình đó. Bằng một vận dụng đức tin, chúng ta hãy đi tìm Chúa. Nhiều khi chúng ta có ấn tượng rằng chúng ta đã đóng đinh Chúa, hoặc đã để mất Chúa… Không bao giờ lòng tin của chúng ta lại “thật” hơn khi thấy mộ Chúa trống rỗng –Khi ta chấp nhận Tin Mừng trọng đại: Chúa Giêsu sống, Người hòa giải chúng ta, Người làm cho chúng ta sống.

Trong ký sự của thánh Maccô, chúng ta thấy mấy bà từ mờ sáng đi thăm mộ Chúa. Họ có ý định đến làm cho xong việc xức thơm thi hài Chúa. Họ chẳng nghĩ gì khác ngoài cuộc bận tâm đó. Các bà tự hỏi ai sẽ vần dùm tảng đá đậy cửa mồ. Nhưng mặc dù băn khoăn, họ vẫn tiến bước, tâm hồn bị thúc đẩy bởi lòng trung thành với Chúa. Thế mà, sửng sốt làm sao, họ tới nơi thì thấy tảng đá đã được ai vần sang một bên rồi. Họ đành liều, bước vào phòng ngoài của ngôi mộ, thấy một thanh niên cất tiếng nói với họ. Người đó cho biết Chúa Giêsu không còn là một người chết, nay Chúa đã sống lại. Từ ký sự của thánh Maccô, chúng ta rút ra được suy niệm gì bổ ích cho lòng tin của chúng ta?

1) Câu chuyện mấy bà đi tảo mộ Chúa rất có ý nghĩa cho một trong những giai đoạn của đức tin. Hành vi tin, lúc bắt đầu, là một sự cất bước không đắn đo suy tính, đi tìm một Đấng mà người ta không biết được toàn thể mầu nhiệm. Các bà chưa được biết mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đối với họ, Chúa là Thày. Cái chết thê thảm của Thày làm cho họ chìm trong đau khổ và hoang mang quá đỗi. Nhưng linh tính khiến họ cảm thấy giữa Thày và họ chưa hết, vẫn còn liên hệ dù chỉ là việc đến mộ hoàn tất viếc xức thơm thi thể Thày đầy thương tích sau cuộc khổ hình. Thăm mộ đem lại gì cho họ? Đem lại một sự hoang mang ghê gớm hơn nữa, họ chỉ thấy một khoảng trống. Họ khiếp sợ đến nỗi không thốt lên lời. Chỉ mãi sau này các bà mới tin. Có bao giờ chúng ta tự nhiên đến với Đức Kitô mà vẫn có ấn tượng về một sự trống rỗng mênh mông? Khoảng chân không đó cần thiết cho hành vi tin của chúng ta được thuần khiết. Chúng ta làm điều hợp lý khi nghe theo nội tâm thúc giục chúng ta tìm đến Đức Kitô.

2) Họ thấy tảng đá đã được vần sang một bên. Theo não trạng những Kitô hữu tiên khởi gốc Do Thái, đó là mộtsự kiện có ý nghĩa. Có nghĩa là thần chết đã bị đánh bại. Mộ được mở ra, tức là người chết không còn thuộc về cõi âm ty, nơi mà người Do Thái tưởng tượng những kẻ quá cố cư ngụ. Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy. Nếu có những lần chúng ta có ấn tượng về một khoảng trống rỗng mở ra trong cõi huyền vi chính vì những lúc đó trong một góc sâu tâm khảm chúng ta một sự sống lại đang chuẩn bị. Chúng ta chưa nắm được cái hiển nhiên –nhưng Chúa không muốn bị gò bó trong những hạn chế của chúng ta về tư tưởng, ước vọng, về cung cách sống đời Kitô hữu- Chúa vần sang một bên tảng đá nó đóng kín tâm trí chúng ta và Chúa chuẩn bị chúng ta sống lại cho một đời sống cuồng nhiệt hơn, thật hơn.


 

54. Đức tin của chúng ta (Lc 24,13-35).

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA CÓ THEO KỊP HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG?

(Đoạn suy niệm sau đây được đề nghị dùng ngày lễ Phục Sinh, trong lễ chiều. Tuy nhiên không cấm dùng trong các lễ sáng).

Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thành văn, và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.

Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của tc. Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử, chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy, nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng của chứng từ.

1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái hiểu biết” Chúa Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa.

Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng, sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?

2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:

“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu tham khảo Công giáo” số ngày 19-12-1971).

Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta sống.


 

55. Sứ Điệp Phục Sinh.

GỬI QUA TỘI LỖI

Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối, các tông đồ buồn bã ngồi thinh lặng trong phòng tiệc ly và cửa thì đóng kín. Các ông khẽ bàn bạc với nhau về Đức Kitô. Phêrô và Gioan đã đi đến ngôi mộ, nhưng ngôi mộ hoàn toàn trống trơn. Rồi những lời đồn thổi của các phụ nữ được loan truyền. Các môn đệ vừa lo sợ nhưng cũng cảm thấy một tia hy vọng lóe lên.

Thế rồi sự gì đã xảy ra? Có phải là một luồng ánh sáng? Hay là một bóng ma, một ảo ảnh? Không. Đó chính là Đức Kitô bằng xương bằng thịt với đôi mắt trìu mến. Ngài nói với các ông: Bằng an cho các con. Thầy đây mà. Đừng sợ. Có lẽ Ngài đã nói tiếp với các ông: Các con hãy vui mừng vì Ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Chiến thắng tội lỗi và sự chết là hai sứ điệp quan trọng mà Đức Kitô Phục sinh muốn gửi đến chúng ta, những người đã đặt trót niềm tin tưởng và cậy trông nơi Ngài.

Như chúng ta đã biết: Tội của Adong Eva được sánh ví như là một chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo một chuỗi dài tội lỗi của nhân loại qua muôn thế hệ. Tội của Adong Eva đã mở toang cánh cửa để tội lỗi ùa tràn và ngự trị trần gian. Bởi tội của một người mà chúng ta phải chết, thì giờ đây, nhờ công phúc của một người mà chúng ta được sống. Thánh Ambrosio đã nói: Trời và đất cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô. Trần gian này, nhân loại này sẽ được sống lại, có nghĩa là những vết thương, những khổ đau do tội lỗi gây nên, sẽ được hàn gắn, sẽ được chữa lành, sẽ được xóa bỏ. Adong đã làm cho nhân loại chìm ngập trong tội lỗi và sự chết, thì giờ đây Đức Kitô Phục sinh sẽ khai mở một thế hệ mới trong ân sủng và tình thương nhờ đó mà nhân loại được bước vào cõi sống muôn đời.

Vì thế, lời nói đầu tiên của Đức Kitô Phục sinh là gì, nếu không phải là lời cầu chúc bình an: Bình an cho các con. Khi nói lời ấy, Ngài thổi hơi, tượng trưng cho Chúa Thánh Linh, trên các ông và trao cho các ông quyền tha tội. Chúa Giêsu đã thấu suốt tâm hồn chúng ta, Ngài biết rằng tâm hồn chúng ta đang khao khát sự bình an. Thế nhưng tội lỗi và sự bình an không thể nào đi đôi với nhau được. Tội lỗi là như trái phá, làm nổ tung sự bình an. Nó hủy diệt và phá vỡ sự bình an trong tâm hồn cũng như ngoài xã hội. Bởi đó, để chúng ta có được sự bình an đích thực, thì trước hết Ngài phải tha thứ tội lỗi chúng ta, Ngài phải chiến thắng quyền lực của tội lỗi: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Một tâm hồn tội lỗi bao giờ cũng sống trong lo âu, trong hận thù và không thể nào có được sự bình an, bởi vì sự bình an chỉ là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau, cũng như giữa chúng ta với chính bản thân mình. Cuộc tử nạn và sống lại của Chúa là nhịp cầu hòa giải, là nhịp cầu cảm thông đầu tiên, nối liền đất với trời, nối liền nhân loại với Thiên Chúa, nhờ nhịp cầu này mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa thứ tha.

GỬI QUA SỰ CHẾT

Hậu quả của tội lỗi là sự chết. Cái chết phần xác và nhất là cái chết phần hồn. Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã phải run sợ trước cái chết. Họ ra sức tìm kiếm viên thuốc trường sinh bất tử, để khỏi phải chết. Thế nhưng viên thuốc trường sinh ấy mãi mãi chỉ là một câu chuyện huyền thoại. Một giấc mơ chưa bao giờ trở thành sự thật. Cái chết là như một tiếng chuông gọi hồn. Nó sẽ vang lên bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Dù là vua chúa uy quyền thì cũng vẫn phải cúi đầu vâng theo. Không ai có thể chống cự lại nó. Cái chết là khung cửa hẹp đẩy chúng ta vào vùng tăm tối.

Thế nhưng Đức Kitô đã hiên ngang bước vào, đã chiến thắng anh dũng và đã chiếu dọi vào khung cửa tăm tối ấy một luồng ánh sáng huy hoàng. Kể từ nay với Đức Kitô Phục sinh, dù chúng ta vẫn còn phải chết, nhưng cái chết không còn là một trạm cuối cùng để chấm dứt mọi sự, nhưng là một bước đi dứt khoát, để nhờ đó chúng ta được tiến vào vùng ánh sáng, được tiến vào cõi sống đời đời. Vì chúng ta đã được ghép, đã được tháp vào Đức Kitô. Hạt giống của sự sống vĩnh cửu đã được gieo trồng nơi con người chúng ta. Từ đó những tháng ngày hiện tại sẽ ngập tràn hy vọng, bởi vì cuộc đời chúng ta đang được dấu ấn trong Thiên Chúa, nơi Đức Kitô, nó sẽ nẩy mầm, đâm bông và kết trái trong ngày sống lại, khi Đức Kitô ngự đến trong vinh quang.

Cái chết là một định luật chung của số kiếp con người. Cho dù sông có cạn, núi có mòn thì sự thật này vẫn không hề thay đổi, vì từ trước đến nay, nào có ai thoát khỏi cái chết. Nó không phải là một cái gì xa lạ, nhưng là một cái gì thật gần gũi. Nó không phải là một con dao cắt đứt cuộc đời chúng ta, nhưng là một yếu tố luôn ở sẵn trong chúng ta. Từ khi chúng ta bắt đầu sống, thì chúng ta cũng bắt đầu chết. Càng đi xa trong cuộc sống, thì chúng ta lại càng tiến gần tới cái chết. Nếu cuộc sống là một chấm hỏi, thì cái chết cũng là một chấm hỏi, một vấn đề làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ. Cái chết là như một vị nữ hoàng quyền uy, mà mọi người chúng ta đều phải vâng phục.

Tuy nhiên như chúng ta đã thấy: có một người trên trái đất này đã chiến thắng, đã vượt qua cái uy quyền của sự chết. Người ấy chính là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã diễn tả như sau: Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết. Ngài sẽ không còn chết nữa và sự chết không còn quyền hành gì trên Ngài nữa. Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi sự chết, sức mạnh của ngươi ở đâu? Hãy cảm tạ Chúa, Đấng đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Kitô.

Kitô giáo là đạo của Tin Mừng. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, Kitô giáo đã trở thành một tin mừng cho nhân loại khi rao giảng sự chết của Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự phục sinh của Ngài đã chiến thắng cái chết. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta có quyền hy vọng và nói lên rằng: chúng ta sống là để chết và chúng ta chết là để được sống muôn đời. Cái thung lũng nước mắt chúng ta đang sống mới chỉ là một tiền đường, một khởi đầu cho tòa nhà vĩnh cửu, mà rồi chúng ta sẽ sống ở đó sau này. Ngày tháng hiện tại là hạt giống được gieo xuống đất để nảy sinh những hoa trái vĩnh cửu. Đó chính là sứ điệp mà Đức Kitô phục sinh đã gửi cho chúng ta.

Lạy Đức Kitô phục sinh,

Đã chiến thắng tội lỗi và sự chết,

Xin thương xót chúng con.


 

56. Mầu nhiệm.

Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao?

Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.

Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.

Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.

Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.

Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.

Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.


 

57. Sự sống.

Hai Chúa nhật trước chúng ta suy niệm về vai trò của hy sinh và đau khổ, cũng như cách chúng có thể là người dọn đường cho sự sống. Hôm nay, chúng ta cử hành chính sự sống. Sự Phục sinh của Chúa Giêsu là dấu chỉ và là lời hứa, đem lại hy vọng cho chúng ta, mỗi khi chúng ta phải sống giữa những thử thách, đau khổ và nghịch cảnh. Chúng ta cử hành ngày Phục sinh kỳ diệu, là sự thật và là chiến thắng tối hậu của sự sống và tình yêu.

Tiếng reo vui từ khắp nơi: “Chúa Giêsu đã sống lại rồi”. Tiếng reo vui đó xuất phát từ kinh nghiệm được bà Maria Mađalêna kể lại: “Tôi đã thấy Chúa”. Đó cũng là thực tại mà các tông đồ sẽ chia sẻ với ông Tôma trong bài Tin Mừng tuần tới. Tin Mừng về việc Chúa Giêsu đã sống lại sẽ còn được chúng ta chia sẻ với toàn thể thế giới.

Ngày hôm nay không còn việc sầu thương khóc lóc nữa. Ngày hôm nay là thời giờ để vui mừng và tạ ơn.

Tất cả những đau khổ và hy sinh mà chúng ta đã trải qua là quan trọng vì chúng ta sẽ đem lại cho chúng ta một cảm nghiệm về niềm hoan lạc tràn đầy của ngày Phục sinh. Nếu không có thập giá, nếu không có những đau khổ của Chúa Giêsu, thì sự sống lại sẽ mất đi quyền năng của nó là dấu chỉ của cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết. Ngày hôm nay, chúng ta đã bắt đầu được chia sẻ cuộc chiến thắng quyết định của Chúa Kitô, và mang lấy trách nhiệm chia sẻ Tin Mừng này với mọi người. Sự Phục sinh làm biến đổi cách chúng ta nhìn về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không còn thất vọng khi phải đương đầu với thử thách và đau khổ nữa, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy trước với niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang mà các thánh sẽ lãnh nhận trong ngày tận thế.

Chúng ta hãy bước ra khỏi bóng tối của ngôi mồ và bước vào ánh sáng Phục sinh, rồi sống cuộc đời của mình trong niềm tín thác vào tình yêu vô biên mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận ân sủng hy vọng. Chúng ta hãy để cho tâm trí mình được đổi mới và sống trong niềm xác tín vào lời hứa về sự sống đời đời, mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta nếu chúng ta đặt niềm tin, cậy, và yêu mến vào Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổi mới cuộc sống của con trong chân lý về sự sống lại. Xin đừng để con thất vọng khi gặp phải đau khổ và tội lỗi xảy đến trong cuộc đời, nhưng xin cho con luôn xác tín và chia sẻ cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trong từng ngày sống của con.


 

58. Sáng và tối.

Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.

Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.

Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.

Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.

Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.

Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.

Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.

Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.

Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.

Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.


 

59. Niềm hy vọng sống lại.

Đức Kitô đã sống lại thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể sống lại được?

Có những kẻ nghĩ rằng: Sự sống lại làm sao có thể xảy ra cho những người chết mất xác, chết không toàn thây, chẳng hạn như bị pháo kích thân xác nổ tung thành từng mảnh nhỏ, hay chết chìm dưới lòng biển cả làm mồi cho cá mập? Chết mà không để lại một dấu vết nào cả.

Tôi xin hỏi lại họ: Phải chăng đó là điều khó khăn đối với quyền năng Thiên Chúa? Dựng nên một sự sống khi nó chưa có hay là phục hồi nó một khi đã có, thì đằng nào khó hơn? Làm cho một thân xác được sống lại hay là tạo thành nó từ hư vô, đằng nào khó hơn? Chẳng lẽ Đấng Toàn Năng, đã tạo dựng vũ trụ lại bất lực, không thể cứu chúng ta khỏi sự hư mất sao? Trong bức thư gửi giáo dân Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Có người bảo kẻ chết làm sao sống lại được, họ sẽ lấy thân xác nào mà phục sinh? Thật là vô lý. Đúng thế. Thật là vô lý, nếu chúng ta bảo rằng Đấng đã tạo thành sự sống, lại không có thể trao ban sự sống ấy lại một lần nữa. Thật là vô lý nếu chúng ta bảo rằng một thân xác đã chết và bàn tay uy quyền của Chúa sẽ không thể nào làm cho nó sống lại.

Có kẻ thì nói: Tất cả đã bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, tất cả đã trở về với cát bụi, thì làm sao có thể nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa?

Như chúng ta đã biết: Lời của Thiên Chúa là Lời của uy quyền. Lời ấy đã phán: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Lập tức chàng trai thành Naim đã chỗi dậy, đã sống lại. Đứa con gái của ông Giairô, cũng đang nằm chết ở trên giường và Lời ấy đã vang lên: Hãy chỗi dậy. Lập tức, cháu bé ấy cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại. Cũng như Lagiarô, mặc dầu đã được chôn táng trong mồ những bốn ngày rồi, nhưng khi Lời ấy vang lên, thì Lagiarô cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại và ra khỏi mồ. Và như thế, Lời ấy cũng sẽ vang lên một lần nữa và tất cả mọi người đã chết đều được sống lại.

Nhìn vào cảnh vật thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy được rằng Thiên Chúa đã in dấu chiến thắng trên vật chất. Sau đêm tối là hừng đông rạng rỡ. Sau mùa đông băng giá là mùa xuân huy hoàng. Một hạt giống mục thối cho mầm non vươn lên.

Với chúng ta cũng vậy, sẽ có một cuộc phục sinh để hoàn tất chương trình cứu độ. Bấy giờ sẽ không tang tóc và đau khổ, chết chóc và buồn phiền, bởi vì Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt chúng ta. Bấy giờ chúng ta sẽ tiến lên, lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu.

Vậy niềm tin vào sự sống lại sẽ đem đến cho chúng ta những hậu quả nào?

Hậu quả thứ nhất, đó là một lời báo động: Hãy chuẩn bị cho ngày ấy vì ngày ấy là một ngày trọng đại nhất của lịch sử nhân loại. Cũng như ngày đầu tiên, Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng và ánh sáng liền có. Thì trong ngày cuối cùng ấy, Thiên Chúa sẽ nói: Hãy có bóng tối và chấm dứt mọi sự. Lập tức đã xảy ra như thế. Rồi những người đã chết sẽ chỗi dậy và sống lại: Từng triệu triệu người, từ những ngôi mộ lộng lẫy hay từ lòng đất ở một nơi xa xôi nào đó, cũng như từ biển khơi bao la; những kẻ đã bị quên lãng, không một ai biết đến; những kẻ đã từng nếm mùi khổ đau trong cuộc sống; những người trung thành với Đức Kitô cũng như những kẻ phản bội Ngài…Tất cả sẽ nhìn thấy Con Người ngự đến trong vinh quang.

Hãy chuẩn bị cho ngày ấy. Nếu một lúc nào đó chúng ta sẽ được sống lại, thì ngay từ giờ chúng ta phải mến Chúa và yêu người, vì cuộc đời vĩnh cửu không thể nào được tạo nên bởi một nếp sống tầm thường, trống rỗng và không một chút công nghiệp. Cũng như một hạt lúa lép hay một chiếc vỏ trấu sẽ không thể nào nảy mầm và mọc lên thành một cây lúa xanh tươi. Bởi đó, hãy chuẩn bị cho mình tấm áo cưới là tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp, vì đó là những thứ hành trang cần thiết để được đón nhận vào nước trời.

Niềm tin tưởng vào sự sống lại còn là một nguồn sức mạnh cho chúng ta trong những cám dỗ và thử thách. Thực vậy, thánh Phaolô đã viết: Nếu anh em được sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời. Nhờ việc Phục sinh mà chúng ta có được sức mạnh để đứng vững, để trung thành cùng Chúa. Nếu như bây giờ chúng ta phải chờ đợi, thì chắc chắn ngày huy hoàng ấy sẽ xuất hiện. Nếu như bây giờ chúng ta phải bước đi trong đêm tối, thì chắc chắn bình minh sẽ bừng sáng. Điều quan trọng đó là đừng bao giờ chúng ta thất vọng, đừng bao giờ chúng ta nản chí. Bởi vì, chúng ta không thể nào gặt hái khi những bông lúa còn xanh và chưa được chín vàng.

Sau cùng, niềm tin tưởng vào sự sống lại sẽ là một niềm an ủi cho chúng ta. Thực vậy, người ta kể lại rằng: Những sắc dân bán khai ở Pérou, mỗi khi có nhật thực, mặt trời bắt đầu tối lại giữa ban ngày, thì họ vội vã giật tóc và nức nở khóc lóc một cách thảm thiết vì họ nghĩ rằng sẽ chẳng còn mặt trời nữa.

Với chúng ta thì khác. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta biết rằng: Bóng tối và cái chết chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Chúng ta có thể buồn và khóc trên phần mộ của những người thân yêu, nhưng nỗi buồn của chúng ta sẽ chẳng bao giờ đi đến chỗ tuyệt vọng như những kẻ không tin tưởng, bởi vì chúng ta biết rằng: Hạt lúa cần phải mục nát đi thì mới nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái.

Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thế nào, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại như vậy. Chúng ta cũng biết rằng: Mặt trời lặn vào ban chiều, nhưng sáng hôm sau, sẽ là hừng đông rạng rỡ. Mùa thu thì lá vàng rơi, nhưng khi mùa xuân trở lại, thì những cành cây trơ trụi sẽ đâm chồi nẩy lộc và trở nên xanh tươi.

Sau cùng, chúng ta cũng biết rằng: Hiện thời thân xác chúng ta sẽ phải chết đi, nhưng rồi ngày hội lớn sẽ đến và chúng ta sẽ được sống lại như lời Chúa đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống. Và Ta, Ta sẽ cho họ được sống đời đời.

Cái chết là khung cửa hẹp mà tất cả chúng ta đều phải bước qua. Kẻ thì lo buồn run sợ, kẻ thì khóc lóc chống cự. Chỉ có một người đã hiên ngang bước vào, đã chiến thắng và đã chiếu vào khung cửa tối tăm ấy một luồng ánh sáng. Người ấy chính là Đức Kitô Phục sinh, Ngài đã cầm trên tay cành lá chiến thắng và đem đến cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu.


 

home Mục lục Lưu trữ