Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1377222
TÔI ĐÃ ĐỂ ĐI QUA
Chủ đề: "Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn, như Đức Giêsu đã làm."
Một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ khoảng 17 tuổi. Cô ta cũng đợi để sang đường. Bà không thể nào không thấy là thiếu nữ này đang khóc. Thật vậy, nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu nó. Trong khoảnh khắc ánh mắt hai người gặp nhau. Dù chỉ là khoảnh khắc nhưng cũng đủ để bà thấy được sự đau khổ lớn lao ngập đầy đôi mắt người thiếu nữ. Cô gái xoay mặt nhìn chỗ khác.
Khi đèn báo bật sáng. Mỗi người bước khỏi lề và khởi sự bước sang đường. Khi thiếu nữ gần đến, người đàn bà có thể thấy cô thật xinh xắn, ngoại trừ nỗi buồn hiện rõ trên khuôn mặt.
Ngay khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng nhiên nổi dậy. Mọi thứ trong người bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô.
Ao ước đó lại càng gia tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà. Nhưng bà đã để cô đi qua. Ngay cả một lời thăm hỏi cũng không. Bà chỉ để cô đi qua mà không nói một lời. Nhiều giờ sau, đôi mắt ngập tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà luôn luôn tự hỏi, "Tại sao mình không quay lại hỏi thăm, 'Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?' Nhưng mình đã không làm vậy. Mình bước đi. Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ mình là người tò mò. Nhưng có sao đâu! "Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô. Nhưng mình đã bỏ đi. Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện."
Câu chuyện có thật đó là một trong các câu chuyện cho thấy điều Đức Giêsu muốn nói trong dụ ngôn thật hay của bài phúc âm hôm nay. Đó là: Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn của Đức Giêsu, chúng ta cần biết chút đỉnh về hoàn cảnh thời bấy giờ. Con đường trong dụ ngôn của Đức Giêsu không phải trong tưởng tượng. Thật vậy, đó là một con đường rất nổi tiếng. Đó là con đường duy nhất thời xưa đi từ Giêrusalem đến Giêrikhô. Lúc ấy con đường ngoằn ngoèo vì các tảng đá lớn. Hậu quả là con đường trở thành sào huyệt nổi tiếng của bọn cướp.
Một lá thư viết từ năm 171 AD than phiền với nhà chức trách về tội ác xảy ra trên con đường này. Có những hồ sơ lịch sử ghi nhận việc người đi đường phải nộp tiền mãi lộ cho bọn cướp để được yên ổn băng qua. Chính con đường nổi tiếng này đã làm khung cảnh thực tế cho dụ ngôn của Đức Giêsu về người Samari nhân hậu. Trong dụ ngôn, Đức Giêsu vẽ ra ba loại người khác nhau: một người tư tế, một thầy Lêvi, và một người Samari.
Trước hết, người tư tế. Có lẽ ông đang trên đường đến Giêrusalem để tế lễ trong Đền Thờ. Có lẽ ông nghĩ nạn nhân nằm bên vệ đường đã chết nên ông đi qua. Nếu một tư tế chạm đến xác người chết, ông bị nhiễm uế và tạm thời bị cấm không được vào Đền Thờ. Do đó, người tư tế không muốn dính dáng đến.
Kế đó là người Lêvi. Ông ta cũng giống như thầy phó tế ngày nay. Không rõ lý do tại sao ông lại bỏ qua. Có lẽ lý do của ông cũng giống như của người tư tế. Hoặc có lẽ ông sợ nạn nhân này chỉ giả vờ và sẽ tấn công ông nếu ông đến giúp. Do đó, thầy Lêvi cũng không muốn dính líu tới.
Sau cùng, đó là người Samari. Khi đề cao người Samari thành anh hùng trong dụ ngôn, Đức Giêsu chắc đã làm thính giả phải bàng hoàng sửng sốt, vì họ thường tránh xa người Samari như quân phản loạn không đạo đức đàng hoàng. Người Samari bị cấm không được vào Đền Thờ. Tiến lễ của họ bị từ chối, và lời chứng của họ không được chấp nhận ở toà án.
Nhưng Đức Giêsu biết việc Người làm khi đưa người Samari thành anh hùng trong câu chuyện. Người muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới. Tình yêu đến với mọi người đang có nhu cầu. Nó không bỏ qua. Nó dừng lại để giúp đỡ; nó muốn dính líu, bất kể người đó là ai.
Và điều đó đưa chúng ta trở lại câu chuyện của người phụ nữ và cô gái phiền muộn. Đến với cô ta và giúp đỡ cô ta thì thật dễ. Như chính bà đã nói: "Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ để cô ta biết là có ai đó lưu tâm đến cô." Và, nhiều khi, đó là điều mà tất cả những gì một người đau buồn muốn được biết.
Thường những gì họ cần thì không phải tốn nhiều sức lực của chúng ta, không phải mất nhiều thời giờ của chúng ta, không phải tốn kém nhiều tiền bạc của chúng ta. Thường tất cả những gì họ cần thì đơn giản là được thấy chúng ta lưu tâm đến họ.
Và dụ ngôn hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn đến sự tương giao của chúng ta với người khác. Nó mời gọi chúng ta hãy tự hỏi chính mình: Chúng ta đáp ứng thế nào với nhu cầu của người khác? Chúng ta có dừng bước và sẵn sàng giúp đỡ họ không? Hay chúng ta bỏ đi, làm như họ không hiện diện?
Đặc biệt, chúng ta có thi hành điều này đối với các phần tử trong gia đình chúng ta hay không? Một dữ kiện buồn thảm của đời sống là đôi khi chúng ta đối xử với người lạ còn tốt hơn với người thân, như vợ chồng, cha mẹ, hay con cái.
Dụ ngôn hôm nay không mời gọi chúng ta đi ra xa, nguy hiểm đến tính mạng và trở thành anh hùng. Nó mời gọi chúng ta đến với người khác, liều mất sự tự cao tự đại của mình và trở nên nhân bản hơn. Nó mời gọi chúng ta lên tiếng hỏi, "Tôi có thể giúp gì không?" Và nếu lời ngỏ ý của chúng ta bị từ chối thì sao? Như người phụ nữ trong câu chuyện nó, "Thì có sao đâu!" Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta lưu tâm đến hộ. Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta đã ngỏ lời, "Tôi có thể giúp gì không?"
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cặp mắt để nhìn thấy sự đau khổ trong ánh mắt của người khác, nhất là những người trong chính gia đình chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi tai để nghe tiếng than khóc của người khác, nhất là những người cùng dòng máu với chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng trắc ẩn để dám dính dáng đến nhu cầu của người khác, nhất là nhu cầu của những người thân yêu của chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự khiêm tốn đừng bao giờ bỏ qua vì sợ bị khước từ. Nhưng xin ban cho chúng con sự can đảm để đến với họ và hỏi họ, "Tôi có thể giúp gì không?"
58. Luật Samaritanô – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Câu chuyện kể của Chúa Giêsu về người Samarianô nhân hậu đã khởi hứng cho một câu chuyện phim khá lý thú. Nội dung chuyện phim như sau: Một cô sinh viên trường y đang học năm cuối chương trình y khoa một lần kia chứng kiến một người đứng tuổi mập mạp đang trong cơn đột quỵ. Hoàn cảnh lúc ấy thật cấp bách, theo sự hiểu biết về y khoa mà cô sinh viên đã tiếp thu ở nhà trường thì cần phải có một tiểu phẩu nhỏ nơi cổ nạn nhân mới có thể cứu sống nạn nhân kịp thời trước khi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Cô sinh viên ngành y ấy đã theo tiếng lương tâm mà làm tiểu phẩu trước khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nạn nhân được cứu sống, nhưng lại bị một di chứng là khó phát âm vì khi làm tiểu phẩu, cô sinh viên chưa tốt nghiệp ấy bị một sai sót nhỏ. Cô sinh viên bị nạn nhân kiện. Nhiều thế lực không tốt cũng nhân cơ hội ấy để kiện luôn cả khoa và trường mà cô sinh viên đang theo học. Vụ kiện làm xôn xao dư luận, trở thành đề tại “hot” và cô sinh viên đang ở trong cảnh thế bí chỉ vì lý do chính là chưa tốt nghiệp, chưa có bằng chứng nhận được phép hành nghề y khoa. Và nhà trường cũng như bị liên lụy trách nhiệm đáng kể. Câu chuyện tưởng như không có hậu ấy đã thay đổi vào phút chót khi viên luật sư trẻ đầy tâm huyết đã tìm ra một luật để bào chữa đó là luật Samaritanô. Câu chuyện phim trở thành có hậu khi cô sinh viên được tòa tuyên vô tội.
Thánh tông đồ dân ngoại nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn mọi Lề Luật” (Rm 13,8). Có thể nói rằng luật tình yêu là luật của các luật. Tuy nhiên cần xác định thế nào là yêu thương. Dưới khía cạnh tiêu cực, “đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại”(Rm 13,10). Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo Tanmút Do Thái giáo thì Rapbi Hinlen cũng nói: “Đừng làm cho người khác điều chính mình không thích”. Ông Tobia cha, đã khuyên bảo người con một đạo lý tương tự như trên: “Này con, hãy cẩn thận trong mọi việc con làm, và hãy tỏ ra con là nhà gia giáo trong mọi cách ăn thói ở của con. Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả”(Tb 4,14-15). Chúa Kitô đã đưa luật tình yêu này đến tận cùng với chiều kích tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và các lời ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Bài Tin mừng Chúa Nhật XV TN C tường thuật khi được Chúa Giêsu hỏi rằng trong Luật đã viết những gì thì vị thông luật đã trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ông ta trả lời chính xác và hãy làm như vậy thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp (x.Lc 10,25). Kitô hữu chúng ta ít băn khoăn hay tranh luận về giới luật phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Quả thật nếu đã tin nhận Thiên Chúa là căn nguyên và là cứu cánh của mọi vật mọi loài, nhất là loài người chúng ta thì việc phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là lẽ tất yếu. Tuy nhiên, cũng như vị thông luật kia, chúng ta nhiều khi cảm thấy khó khăn với giới luật yêu tha nhân như chính mình.
Cựu Ước ghi rõ là phải yêu người thân cận như chính mình. Thế thì ai là người thân cận của chúng ta? Hạn từ người thân cận dường như giả thiết một sự giới hạn nào đó cả về mối tương quan cũng như điều kiện hoàn cảnh. Người Do Thái vốn ưu tiên đặt nặng mối dây tương quan niềm tin tôn giáo, kế đến là là mối tương quan màu da quốc tịch… Và chắc chắn trong phạm trù người thân cận không hề có kẻ thù. Chúng ta nhận ra điều này khi họ được dạy rằng “hãy yêu thương đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43).
Chúa Giêsu đã làm chưng hửng vị thông luật kia, khi mở rộng phạm trù người thân cận đến tất cả mọi người, không trừ ai. Người lại còn khẳng định tính tất yếu và vô điều kiện của giới luật yêu người. Câu chuyện “người Samaritanô nhân hậu” là một ví dụ minh họa rõ nét. Dù là luật của nghi lễ tế tự như trường hợp vị tư tế hay dù là một sự cẩn trọng, khôn ngoan cần có như trường hợp của vị trợ tế hay dù bất cứ lý do gì cũng không thể là nguyên cớ khiến ta xao nhãng hay thoái thác nghĩa vụ sống yêu thương. Theo nội dung câu chuyện kể, khi truyền cho vị thông luật là hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu thì Chúa Giêsu nhắc nhớ vị ấy cũng như chúng ta rằng đừng hỏi ai là người thân cận của tôi mà hãy tự hỏi tôi là người thân cận của những ai. Chúng ta phải trở nên người thân cận của tất cả những ai đang cần đến lòng xót thương, ngay ở đây và lúc này.
Là Kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua nội dung dụ ngôn cuộc phán xét chung trong Tin mừng Matthêu đã được Giáo hội viết thành lời kinh “mười bốn mối thương người”. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống…Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta….Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không choTa ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc…”(Mt 25,31-46).
“Hãy đi và hãy làm như người Samaritanô nhân hậu!” Một lệnh truyền mang tính cấp thiết vì nó liên hệ đến hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, con phải là người thân cận của ai đây? Không phải ở đâu xa hay là ngày mai, nhưng hôm nay và ở nơi này, lạy Chúa, những ai đang cần lòng thương xót, sự cứu giúp và nâng đỡ của con? Nếu thật lòng và xác tín với lời cầu nguyện trên, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
59. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN
Phải làm gì để được sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều răn lớn nhất; mà cả hai tác giả Nhất Lãm khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một câu hỏi khác, riêng của Luca, câu hỏi về người thân cận; câu hỏi này được làm sáng tỏ bằng dụ ngôn người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả Tin Mừng không ngừng lại giữa đường; đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông tiếp tục minh hoạ cho điều răn lớn nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải hiểu thế nào là yêu người thân cận; câu chuyện về hai chị em cũng làm một công việc tương tự về điều răn yêu mến Chúa. Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có người khác trong khi tiếp nhận từ Chúa.
1. Điều Răn Lớn: 10,25-28
Và này có người thông luật kia đứng lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông thái vắng mặt ở hoạt cảnh trước. Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến thức của Ngài trong vấn đề Luật, ông ta ép buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm, dựa vào truyền thống và suy tư cá nhân của Ngài, đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất trong Luật (S. Légasse). Để đạt mục đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã được thoả thuận trong Do Thái giáo, về điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28) hoặc về những phương thế để đón nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở đây và ở Lc 18,18). Lời đáp của Chúa Giêsu thực ra là một câu hỏi ngược lại về luật; như đối thủ của mình, Ngài biết rằng đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh Thánh. Vì thế Ngài mới hỏi: về vấn đề này: ông đọc thế nào?
Lúc đó Luật sĩ trưng ra điều luật của Đnl 6,4 mà mọi người Do Thái đạo đức đọc hai lần một ngày trong kinh Shema Israel và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn bó hoàn toàn vào Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông ta nói thêm điều luật của Lv 19,18 về tình yêu người thân cận. Khi đặt hai câu ấy nối tiếp nhau, ông đã tuân theo truyền thống Do Thái đánh giá tình yêu tha nhân bằng cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu Thiên Chúa. Một cách đọc Kinh Thánh như vậy hoàn toàn ăn khớp với lời giải thích của Chúa Giêsu, chính Người đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung tâm của ơn gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong khi tán thành ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị luật sĩ đem ra thi hành giới răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như vậy thì sẽ được hưởng sự sống tròn đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến. Độc giả cũng được mời gọi nối kết với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của tình yêu đối với Thiên Chúa và với người thân cận nảy sinh qua năm tháng, phải chăng không là việc hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ thực hành luật mà ông đã phụng tự, ông sẽ trở lại tình trạng của những người bé mọn và sẽ thấy được sự hiện diện hoạt động của Thiên Chúa.
2. Dụ Ngôn Người Samari Tốt Lành: 10,29-37
Hoạt cảnh lại tiếp diễn bởi vì ông luật sĩ đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ phụ thôi: ông muốn tỏ ra mình có lý khi đặt vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi. Đưa ra một định nghĩa về người thân cận có thể sẽ rơi vào cái chi li của luật mà Ngài đã từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ trở thành một luật sĩ mất! Trái lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ kết thúc bằng một câu hỏi ngược lại (c.36).
Trong hoạt cảnh, những người ẩn danh được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của họ: kẻ cướp và chủ quán cư ngụ tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là khách qua đường, người Samari đi đường. Người này là một tên lạc giáo chỉ chấp nhận có Luật thành văn là bộ Ngũ thư và từ chối hoàn toàn luật truyền khẩu. Dưới mắt ông luật sĩ, anh ta hoàn toàn trái ngược với hai vị đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn về con người nửa sống nửa chết thì không hề có một lý lịch xã hội nào; người ta cũng chẳng biết anh ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi dàn dựng các nhân vật như thế, Chúa Giêsu tránh được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật sĩ đặt ra, có thể đưa Ngài tới chỗ trình bày người thân cận dưới dáng vẻ một anh chàng Samari nửa sống nửa chết. Thế nhưng, người Samari là một trong những người đi đường ấy. Cũng như các công chức của Đền Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương. Nhưng người kia đứng cách xa bởi vì biết chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ bị nhiễm uế: họ tuân giữ Luật cấm (Ds 19,11-16). Trái lại, người Samari chạnh lòng thương – cũng chính là thái độ của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13). Trong khi các giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự trong sạch, tách rời tình yêu Chúa khỏi tình yêu người thân cận (xc.27) và”tránh qua bên kia” mà đi, thì người Samari lại săn sóc người bị thương, một hành động được diễn tả bằng sáu động từ ở câu 34 và tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao tiền cho chủ quán để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho ông. Như thế, thay vì phải ở lại do biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp tục lên đường. Nếu ông dự trù trở lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông không nói đến việc sẽ hỏi tin tức về người ông đã cứu giúp.
Phù hợp với tâm trạng của các nhân vật trong dụ ngôn, câu hỏi ngược lại đầy năng động của Chúa Giêsu đặt ra làm biến đổi câu hỏi của ông luật sĩ (câu 33 so sánh với câu 29). Ông luật sĩ tự đặt mình làm trung tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận của ông. Chúa Giêsu đảo ngược vấn đề:”Ai đã là người thân cận của người bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thân cận là người tỏ lòng thương xót chứ không phải kẻ thụ hưởng lòng thương xót.”Người thân cận không còn phải là người khác để yêu thương, nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể của hành động đã được làm vì anh ta” (J.Delorme). Người thông luật đã trả lời được chính xác khi bảo người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót (Cl 37). Chẳng sao cả: chính một kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai lạc với luật, đã biết giữ luật của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng tự… Lúc đó, Chúa Giêsu chỉ cần kêu mời ông luật sĩ cũng làm những việc giống như vậy.
60. Chú giải của Noel Quesson
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.
Ngày nay, những người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với "sự đánh cuộc của Pascal" (Tư tường 343): "Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn "Thiên Chúa hiện hữu”, nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại... Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do dự... "
Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu... Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa "mặt sấp" và "mặt ngửa": một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả... hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại chọn lựa, "Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân thành, trung thực.
Thực ra, bạn sẽ không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy".
Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào "một đời sau”. Đức Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng "đời sống vĩnh cửu” ấy đã được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.
Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân cận như chính mình" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
Trước hết, người thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.
Để được sự sống đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31). Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn "thứ nhất" và một giới răn "thứ hai" lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?
Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người nhân cận của tôi?”
Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.
Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước... và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.
Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: "Ai là người thân của của tôi?" sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả "kẻ thù” mình.
Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi...
Một "thầy tư tế", một "thầy Lê vi"! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh "không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm". Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được "sờ vào máu” để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.
Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự "thực hành" bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!
Tôi có là một Người "hành đạo" chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?
Tôi có "thực hành" bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?
Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?
Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.
Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.
Và đó là một "Người Sa-ma-ri"! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu "thực hành" tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!
“Ông chạnh lòng thương xót... " "esplanchnisthè" Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình ảnh: "Splanchna" chính là "ruột gan, bộ lòng". Vậy phải dịch là: "ông xúc động đến ruột gan". Và từ ấy trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa: "Rahamim" cũng chỉ "ruột gan", "lòng mẹ", "tấm lòng", “sự dịu dàng", "lòng tốt", "lòng trắc ẩn sâu xa". Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ "chạnh lòng thương" chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).
Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự "công bố", sự "mạc khải" về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu... người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã... quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta "Thiên Chúa làm điều gì cho con người". Người không ngừng "sinh ra" con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình", thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người "thân cận" của mình chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một "khoa đạo đức” điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng những yêu sách đạo đức... vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.
Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là "sự thờ phụng" thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. "Thiên Chúa là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!" (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. "Bạn có yêu không? Bạn có yêu thương tôi không?" Và không chỉ bằng lời chứ?
Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?" Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".
Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: "Ai là người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)... trong ý nghĩa này, chính " những người khác" là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: "Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?" (theo nghĩa chủ động)... trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận" của những người khác, hoặc là không. Người, “thân cận", nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là “tôi" khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi "ai" là người thân cận của tôi... nhưng "tôi" sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!
61. Ngươi hãy đi làm như vậy - William Barclay
Chúa kể dụ ngôn về người Samari nhân hậu nhân dịp một luật sĩ kia cậy mình hiểu biết Kinh Thánh và những lối diễn dịch khéo léo của các rabi đến để đối chất với Chúa với ý định đánh hạ Ngài. Trong cuộc tranh luận, ông hỏi Chúa câu này: “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” Chắc ông tưởng rằng Chúa sẽ kể ra một lô những nghi lễ, những quy tắc mới lạ và sẽ làm giảm giá trị của Luật pháp. Nhưng ông ta giật mình khi nghe Chúa hỏi ngược lại: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Câu trả lời dưới hình thức hỏi lại đã tước mất khí giới của đối phương. Tuy nhiên ông ta cũng khôn khéo trả lời rằng Luật pháp gồm tóm trong đòi hỏi kính Chúa yêu người. Chúa bảo: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Không có gì mờ ám, né tránh hay lường gạt trong câu nói của Chúa Giêsu. Lòng yêu mến vẹn toàn đối với Thiên Chúa và loài người nhất định là con đường sự sống. Nhưng ai có thể bày tỏ ra tình yêu vẹn toàn ấy? Chúa Giêsu đến không phải để phá hỏng điều răn ấy mà để làm ứng nghiệm trọn vẹn, đem lại ơn tha tội cho những kẻ vi phạm luật ấy và ban quyền năng cho những kẻ cảm biết mình cần thiết. Câu trả lời của Chúa đánh hạ luật sĩ, nó còn đụng đến lương tâm ông nữa. Ông tự biết mình không thể làm trọn những đòi hỏi của những điều luật mà ông biết rất rõ. Bởi vậy ông cố tự biện minh bằng cách thâu hẹp địa hạt mà luật tình yêu áp dụng. Đó luôn luôn là kinh nghiệm của những kẻ tìm cách tự cứu mà từ chối sự cứu rỗi của Chúa Kitô. Không ai có thể dùng sức mình để làm trọn vẹn những đòi hỏi của Luật pháp, hoặc là chúng ta phải tìm cầu sự giúp đỡ từ bên ngoài nơi Chúa Giêsu từ ái, hoặc phải tìm cách giảm thiểu những đòi hỏi của luật. Ý của luật sĩ là không thể nào chu toàn được luật yêu mọi người, dầu là điều răn yêu người lân cận. Để tự biện minh, ông hỏi: “Ai là người thân cận?” Chúa Giêsu đáp lại bằng một câu chuyện một người Do Thái gặp nạn trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Con đường này nổi tiếng là nguy hiểm, Giêrusalem có độ cao 766 mét cao hơn mặt biển. Chỉ trong một khoảng hơn 32 cây số, con đường này đổ dốc sâu tới 1200 mét. Đó là con đường chật hẹp, qua nhiều đèo hiểm trở, có nhiều khúc ngoặt bất ngờ, thuận tiện cho những bọn cướp rình rập. Đến thế kỷ thứ V, thánh Hiêrônimô cho chúng ta biết con đường đó còn mang tên là “Con đường đỏ hay con đường máu”. Đến thế kỷ thứ XIX, ai muốn đi con đường đó phải trả trước tiền an ninh cho những quận trưởng Ả rập địa phương. Đầu năm 1930, H. Morton cho biết ông được cảnh cáo, nếu ông định đi con đường đó thì phải về nhà trước khi trời tối, vì có tên cướp Aben Jidah chuyên cướp ô tô và trấn lột hành khách, du khách, rồi trốn vào núi trước khi cảnh sát kịp tới. Khi kể chuyện này, Chúa Giêsu nói về một việc thường xảy ra trên con đường từ Giêrusalem tới Giêrikhô. Chúng ta thử quan sát các nhân vật được nêu ra. Khách bộ hành: đây là người bất cẩn, liều lĩnh. Ít ai mang hành lý hay tư trang quý mà dám đi một mình trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Bao giờ họ cũng trẩy đi thành đoàn, thành toán, để được an ninh. Người này không thể quy lỗi cho ai hết ngoài chính mình trong thảm hoạ đã xảy ra.
Thầy tư tế trông thấy nạn nhân, ông vội vàng bước qua. Chắc ông đang nhớ rằng kẻ nào sờ vào mình người chết thì sẽ bị ô uế bảy ngày (Ds 19,11). Ông không dám khẳng định, nhưng ông e ngại người đó đã chết và nếu ông chạm vào người đó, ông sẽ mất phiên phục vụ trong Đền Thờ, ông không muốn liều lĩnh như vậy. Ông là người đặt lễ nghi lên trên tình yêu thương. Đề thờ và các nghi lễ tại đó có ý nghĩa đối với ông hơn là sự đau khổ của con người.
Thầy Lêvi mà chức vụ là người giúp đỡ thầy tư tế, một người nhẹ bổn phận hơn và chắc có nhiều thời giờ hơn để có thể cứu trợ. Hình như ông này đã lại gần nạn nhân trước khi ông bỏ đi. Quân cướp thường dùng mồi nhử bằng cách cho một tên trong bọn chúng giả làm nạn nhân, và khi có ai đó vô tình dừng lại bên cạnh nạn nhân, thì cả bọn liền ập đến bắt trói hành khách đó. Người Lêvi này sống với khẩu hiệu “an toàn trước hết”, ông không muốn liều để giúp đỡ ai hết.
Người Samari: Người nghe chuyện lúc bấy giờ chắc tưởng là người này tới là tai hoạ rồi đó. Có thể người này không có dòng máu Samari. Người Do thái không giao thiệp với người Samari, nhưng người này có lẽ thuộc hạng thương gia lưu hành thường quen lui tới nhà quán. Trong Gioan 8,48, người Do thái gọi Chúa Giêsu là người Samari. Danh từ đó đôi khi được dùng để chỉ một tên rối đạo hay một kẻ không tuân phục nghi lễ. Có lẽ người này chỉ là người Samari theo nghĩa một người mà giới chính thống ngoan đạo khinh bỉ. Chúng ta nhận xét hai điều về người này:
- Anh là người được tín nhiệm: rõ ràng chủ quán sẵn lòng tin lời anh. Có thể là anh không đi đúng thần học, nhưng anh là người tốt.
- Chỉ có anh là người sẵn sàng giúp đỡ. Anh có thể bị xem là người rối đạo, nhưng tình thương của Thiên Chúa chan chứa trên tâm hồn anh. Người ta dễ gặp những người ngoan đạo thích giáo lý hơn thích giúp đỡ và cũng gặp người mà giới ngoan đạo khinh bỉ lại biết yêu thương đồng loại. Cuối cùng, chúng ta sẽ bị Chúa phán xét, không phải vì giáo lý trong đầu óc chúng ta, song vì cách chúng ta đã sống.
Chúng ta thử tìm sự dạy dỗ của dụ ngôn người luật sĩ đặt câu hỏi lòng đầy hăng hái. Chúa hỏi lại ông đọc gì trong luật. Luật sĩ đáp theo như đã ghi: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi.” (Đnl 6,3), và thêm “Phải yêu người thân cận như mình.” (LV 18,19). Nhưng giới đạo sĩ Do thái vốn ưa thích định nghĩa, họ ra sức định nghĩa người thân cận là ai, và với tư tưởng hẹp hòi của họ, họ đã thu hẹp người thân cận vào đồng bào Do thái của họ thôi. Vậy câu hỏi của luật sĩ “ai là người thân cận của tôi” là câu hỏi thích đáng. Và câu trả lời qua dụ ngôn dạy ta ba điều:
1. Ta phải giúp đỡ kẻ khác dầu khi kẻ đó tự gieo hoạ cho mình, như người hành khách bất cẩn liều lĩnh này.
2. Dù người thuộc quốc tịch nào, khi lâm nạn, đều là người thân cận của chúng ta, sự giúp đỡ của chúng ta phải rộng lớn như tình yêu Thiên Chúa.
3. Sự giúp đỡ phải thực tế chứ không dừng lại ở cảm xúc. Hẳn thầy tư tế cũng như thầy Lêvi cũng cảm thấy xót xa cho người lâm nạn, nhưng không hành động gì. Sự cảm thương thành thực phải đi đôi với hành động thiết thực.
Điều Chúa Giêsu phán với thầy dạy luật thì Ngài cũng nói với chúng ta “Ngươi hãy đi làm như vậy”.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam