Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 89

Tổng truy cập: 1379699

TÔI LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG

Tôi là Bánh Ban Sự Sống – Lm. FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15.

Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:

a- cc. 22-27: Dẫn nhập: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể

b- cc. 28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)

c- cc. 30-33: Bánh bởi trời

c’- cc. 34-40: Bánh bởi trời

b’- cc. 41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)

a’- cc. 52-59: Kết luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể

Như thế, c. 35, “Tôi là bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (6,24-27);

2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (6,28-29);

3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33);

4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (6,34-35).

3.- Vài điểm chú giải

– Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51; 5,19.24.25; 6,26.32.47.53…). Amên do từ Hípri ’âmên có nghĩa là “vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần “amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu (amen amen…) có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”, nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3) Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng[1].

– Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.

– chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số phức “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).

– việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Ga đã sửa lại một chút một công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.

– tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98 lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.

– Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga 6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.

(a) Trong Xh 16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.

(b) Xh 16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái Israel. Ở đầu, ta gặp đại từ chỉ định houtos ho artos (bánh ấy). Tất cả những điểm này không có ở Ga 6,31.

(c) Nkm 9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái Israel đang quay về cầu nguyện với Thiên Chúa.

(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.

– bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở nam tính, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.

– Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (Ga 8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái. Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.

Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). Trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).

Hôm sau, họ lại đi tìm Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.

* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)

Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; x. 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người.

* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)

Người Do Thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.

Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đăt nơi Đức Giêsu.

* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)

Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).

Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là Sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).

Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhận về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.

Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.

* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)

Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn nạn thứ tư (cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.

Như chúng ta vẫn thấy, người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như Đức Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.

+ Kết luận

Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
  2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
  3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào…? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
  4. Đức Giêsu, Đấng Phục Sinh, đang nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Bí tích trong các cuộc cử hành phụng vụ. Chúng ta có biết chính Người là Đấng chúng ta đang tìm kiếm và không phải là dấu chỉ của sự thỏa mãn vật chất nào khác? Cơn đói mãnh liệt nhất của chúng ta là sự mật thiết với Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta, thứ mà Đức Giêsu hôm nay gọi là “sự sống đời đời”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người với tất cả con người, tâm hồn và thân xác của ta.

 

54. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.

CHÚA GIÊSU – BÁNH TRƯỜNG SINH (cc. 22-59)

Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội dung, và vài học giả muốn truy tìm nguốn gốc của bài diễn từ mặc khải trong số các bài giảng huấn Kitô giáo được thực hiện theo kiểu bài giảng huấn Do Thái. Có thể là như thế: thế nhưng sự duy nhất của toàn bài trần thuật cần phải được lưu ý. Từ đầu đến cuối Chúa Giêsu chỉ đeo đuổi một mục tiêu: làm cho dân chúng nhận biết Người; chính bởi vì Người không làm được điều này bằng phép lạ, nên sau đó Người thử thực hiện ý định bằng diễn từ: diễn từ và trần thuật đều dự vào cùng một chiến thuật.

Ghi chú về bản văn: Sự hợp lý liên kết chương này không rõ ràng. Điều đó hệ tại ở tầm vóc đồ sộ của bản văn, ở sự hợp lý đặc biệt của ngôn ngữ Sêmit và chắc chắn ở tận gốc cơ cấu của bản văn (có thể là một bài giảng huấn). Để cho bài đọc được dễ dàng, tôi đã ghi nhận điểm chuẩn của bản văn mà dựa theo đó độc giả sẽ có được nhiều lợi ích.

CHUYỂN TIẾP (cc. 22-25)

Giữa ngọn núi nơi mà việc mặc khải bằng dấu lạ của Chúa Giêsu đã thất bại và hội đường nơi mà việc mặc khải này đạt đến đích điểm, thì việc vượt qua Biển Hồ trở thành phần chuyển tiếp cũng như việc dân chúng tiếp tục công cuộc tìm kiếm Chúa Giêsu. Từ khi dấu lạ xảy ra, một ngày đã trôi qua, và dân chúng, cũng như các môn đệ, gặp lại Chúa Giêsu để nghe bài diễn từ trong hội đường ở Caphanaum. Người kể chuyện không xác định làm thế nào để năm ngàn người đã có thể vượt qua Biển Hồ: lại chi tiết “có vẻ thật” này không làm ông quan tâm. Còn sự quy chiếu vào việc “Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn” (c. 23) củng cố cách hiểu về Thánh Thể của đoạn này. Đối với dân chúng, Chúa Giêsu là “Rabbi”, điều này hình như là đạo lý Do Thái, giống như đạo lý đã dẫn dắt ông Nicôđêmô, kẻ gọi Chúa Giêsu là “Rabbi”, Người đã thực hiện các dấu lạ (3,2).

  1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 26-31).

Mặc khải: thấy các dấu lạ (c. 26)

Lương thực trường tồn (c. 27)

Được Con Người ban cho (c. 27)

Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận (c. 27)

Sự cứng lòng không chịu tin:

Ăn bánh no nê

Lương thực mau hư nát

Công việc nào?

Tổ tiên chúng tôi

Lời quở trách ở câu 26 (“không phải vì các dấu lạ”) xem ra trái nghịch với câu 2 (bởi họ đã từng chứng kiến những dấu lạ). Ta có thể hòa hợp cả hai nhận định trên bằng cách đối chiếu việc tìm kiếm điều kỳ lạ (những dấu lạ ở câu 2) với ý nghĩa sâu xa của dấu lạ về mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà dân chúng không nhận ra. Trong phần này, Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra một cách gián tiếp, qua việc đề cập đến dung mạo Con Người vào thời cuối cùng. Đức tin hay việc làm? Ở đây Chúa Giêsu trả lời: không thể có đức tin mà không có việc làm, bởi vì đức tin là một việc quan trọng nhất trong các công việc Thiên Chúa muốn.

Chúa Giêsu và những người Do Thái cùng chia sẻ một dòng lịch sử chung: “Tổ tiên chúng tôi”, người Do Thái nói với Chúa Giêsu như thế. Tuy nhiên giữa bánh manna và bánh đích thực bởi trời, sự đối nghịch đã có sẵn rồi.

  1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 32-46)

Mặc khải: Không phải ông Môsê, mà chính Cha tôi (c. 32)

Bánh đích thực bởi trời

Bánh Thiên Chúa ban là Bánh từ trời xuống (c. 33)

Bánh đem lại sự sống cho thế gian.

Hiểu lầm: xin cho chúng tôi mãi mãi (c. 34)

Mặc khải: Chính TÔI LÀ bánh trường sinh (c. 35)

Ai đến với Tôi không hề phải đói

Ai tin vào Tôi chẳng khát bao giờ

Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi (c. 37)

Ý của Cha Tôi: Tôi sẽ cho họ sống lại (c.39)

Sự cứng lòng không chịu tin:

Thấy mà không tin (c. 36)

Xầm xì (c. 41)

Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)

Làm sao ông ta có thể nói?

Mặc khải:

Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).

Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết

Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).

Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:

Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:

Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.

Tôi là (c. 51)

Bánh từ trời xuống

Bánh Tôi sẽ ban tặng…

Là để cho thế gian được sống

Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.

Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.

Ẩn ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?

 

55. Chú giải của Noel Quesson.

BÁNH HẰNG SỐNG

Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.

Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa “trên bờ bên kia”. Do đó một diễn từ dài về “Bánh hằng sống” sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.

Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: “Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet).

Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.

Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê”.

Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước… Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những “dấu chỉ của nước trời” mà là những “lợi lộc vật chất” họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít “duy vật” hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu “giải gỡ” những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những “dấu chỉ gây rtgỡ ngàng” của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?

Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.

Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường “lương thực hằng ngày” nhưng hãy ao ước “Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta “làm việc” cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em… Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.

Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.

Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người.

Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực”.

Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó… Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ “man-na” đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng “bú mút”: Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?

Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.

Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.

Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói “Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này.

“Bánh từ trời xuống” đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của “quà tặng từ trên cao”, “lương thực bởi trời”. Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen “tin tưởng” vào Chúa: “Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: “Bánh vật chất” không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, “Đấng Kitô” của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.

Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh”.

Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.

– A-mốt 8,11: “Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa”.

– Giêrêmia 15,16: “Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.

– Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).

Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.

Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.

Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao…

 

56. Chú giải của Fiches Dominicales.

ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.

1) Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’

Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ Người xuống thuyền đi sang “bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.

Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): “Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho” (“Lecture de l’evangile de Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải “làm việc” để kiếm tìm.

Ngộ nhận mới do những từ ngữ “làm”, “những việc” gợi lên. Dân chúng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.

Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua “những việc” (số nhiều) để nghĩ đến “Việc Thiên Chúa” (số ít): bởi lẽ “việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.

  1. Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.

Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: “Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào” (OC. trang 134).

Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Apraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.

Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:

+ Người ban manna, “bánh bởi trời” không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là “Cha” của Người.

+ Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. An huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: “Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc” (hồi ức) và khao khát “được ăn mãi thứ bánh ấy” (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể” (OC. trang 137).

+ Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống” không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.

-“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”, dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15).

– Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ “chính tôi đây là bánh trường sinh”, bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. “Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy” (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).

Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến” với Người và “tin” vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.

BÀI ĐỌC THÊM

1) “Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị”

(R. Josse trong “Célébrer” tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).

Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.

Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.

Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.

2) “Lương thực đích thực”

(Đức Cha L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 81-82).

“Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác… Họ không muốn dấn thân: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: “Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.

 

57. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Thiên Chúa đã niêm ấn”: Con Người đến từ trời và các dấu chỉ Người hoàn tất là những hành vi qua đó Thiên Chúa bảo đảm rằng sứ mệnh Người là đích thực (3,33) và nhân loại có thể nhờ Người mà chiếm được sự sống vĩnh cửu. Một vài nhà chú giải coi công thức “niêm ấn” là một ám chỉ đến phép rửa của Chúa Giêsu, vì họ thấy cùng từ ngữ đó được dùng trong thần học phép Rửa tội (x. Ep 1, 13; 4,30; Kh 7,3-4).

“Công việc của Thiên Chúa… là các người tin vào Đấng Ngài đã sai đến”: Gioan sử dụng, bằng cách nhuận sắc lại một thành ngữ của Phaolô (Rm 3,18) và duy nhất hóa tất cả thái độ của Kitô hữu thành đức tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.

“Vậy thì ông làm dấu chỉ gì để chúng tôi thấy mà tin ông”: Lời yêu cầu này không có đáp trả, bởi vì không thể đáp trả Chẳng một dấu chỉ nào có thể minh chứng (mặc dầu nhiều dấu chỉ gợi lên cho thấy) Chúa Giêsu là sứ giả Thiên Chúa sai. Một bằng chứng có tính cách ép buộc bất thành hóa công việc của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu. Ở đây những người đối thoại với Chúa Giêsu bắt đức tin lệ thuộc việc chứng kiến những điềm lạ vĩ đại; theo họ, Đấng Thiên sai phải hoàn tất được nhiều phép lạ trổi vượt các phép lạ mà Israel xưa từng mục kích (x. Mc 8,11; Mt 16,1; 12,38), đặc biệt những phép lạ thời Xuất hành. “Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời xuống”: Việc ban manna hằng ngày trong sa mạc đã được nhiều tiến sĩ luật xem như là dấu lạ lớn nhất của thời Xuất Hành (Xh 16, 15; Ds 11,7; 21,5; Đn 8,3; Kn 16,20; ở đây, Gioan trích dẫn Tv 78,24.

KẾT LUẬN

Một lần nữa, Chúa Giêsu đưa thính giả của Người trở lại mầu nhiệm Con Người (c.27), nghĩa là nghĩ đến nhân vật thần thiêng mà Đanien đã thấy bên cạnh Thiên Chúa (Đn 7,13-14), nhân vật của tương lai thiên sai. Đến từ trời, Con Người, tức Chúa Giêsu, sẽ là sứ giả đích thực của Cha, được thánh hiến để thi hành sứ mệnh và được xác nhận qua các phép lạ của Người. Hơn hẳn Môisen trong các dấu lạ cũng như trong chính bản thân (c.32), Người sẽ phát ban một thứ lương thực siêu nhiên cho những kẻ theo Người.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) “Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (c.27). Y như nước luôn múc từ giếng không làm giảm cơn khát của người đàn bà xứ Samaria (4,13), thì “lương thực hay hư nát” cũng chẳng có sức làm chúng ta no thỏa, bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống lâu dài và đích thực; vì một khi ăn vào, nó liền bị tiêu hóa và cuối cùng duy trì tính háu ăn của ta, nhận chìm chúng ta vào sự lệ thuộc bắt buộc, bất lực, tha hóa của khát vọng không bao giờ nguôi, của lòng ao ước đưa tới thất vọng vì sự chết. Của ăn trần thế, cho dù thú vị nhất thời đến đâu vẫn không thể làm no thỏa tâm hồn của con người. Thay vì cố gắng đổ đầy túi thèm khát vô đáy của xác thịt, chúng ta phải “ra công làm việc vì thức ăn lưu lại mãi đến sự sống vĩnh cửu, nghĩa là thức ăn biến đổi chúng ta nên những con người sống chính cuộc sống của Thiên Chúa và hiệp thông vào nguồn phát sinh không bao giờ cạn của Người. Lúc đó niềm ao ước và cơn đói khát của chúng ta sẽ không còn ám ảnh chúng ta nữa; và thay vì lo lắng thái quá cho việc sinh nhai (x. Mt 6,25tt), chúng ta sẽ “đói khát sự công chính” (Mt 5,6), sẽ tìm được của ăn là làm theo ý Thiên Chúa chúng ta (Ga 4,34).

2) “Chúng tôi phải lao công vào việc nào của Thiên Chúa” (câu 28). Câu hỏi xem ra nói lên thiện chí của những người đối thoại với Chúa Giêsu. Nhưng theo văn mạch, nó thật là hàm hồ để được “ăn no nê” (c.26), người ta tỏ ra sẵn sàng đặt một giá nào đó; những công việc tốt họ sẽ thực thi làm cho họ xứng đáng ăn bánh bởi trời, họ tưởng như vậy. Đó là phản ứng thuần bản năng của tôn giáo loài người trong việc “bán buôn” với Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận làm tròn mọi điều kiện Ngài đặt ra, miễn là về phía Ngài, Ngài bảo đảm lợi ích cho chúng ta.

3) Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến lối tiểu xảo đó “Công việc của Thiên Chúa, tức là các ngươi tin vào Đấng Ngài đã sai” (câu 29). Người đảo ngược viễn tượng: không còn vấn đề các công việc của chúng ta, việc mặc cả thô bỉ của chúng ta với Thiên Chúa nữa, nhưng là công việc mà Thiên Chúa hoàn thành trong chúng ta: đức tin vào Đấng Ngài sai đến. Điều này đòi hỏi ở chúng ta một cái gì khác hơn điều chúng ta đã dự liệu: không còn là một cái tối thiểu khiến chúng ta nên sòng phẳng một cách rẻ tiền, cũng chẳng là những dấu lạ nhân đức làm cho Thiên Chúa trở thành người mắc nợ chúng ta, song là việc cởi mở đón nhận hoạt động của Ngài, hoạt động biến đổi chúng ta tự căn để, làm ta trở về với Chúa Giêsu và đem chúng ta vào trường học của Người. Để Thiên Chúa xâm nhập như thế vào đời sống chúng ta và ra công làm việc, điều đó làm chúng ta sợ hãi, Để biện minh cho sự thối lui trước đòi hỏi này, chúng ta dùng một chiến thuật để câu giờ và đặt một điều kiện mới: “Vậy thì Ngài làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm việc chi?” (x. c.30). Trong lúc Chúa Giêsu vừa hoàn thành một dấu chỉ, thì chúng ta muốn ép Người làm nhiều phép lạ càng lúc càng kỳ diệu hơn để chúng ta trơ trẽn lợi dụng. Thật ra, chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta luôn bị cám dỗ từ chối tin vào Ngài. Chúng ta luôn đòi hỏi những bằng cớ chứng minh sự hiện hữu và hoạt dộng của Ngài trong thế gian, những bằng cớ buộc chúng ta tin từ bên ngoài, trong lúc Thiên Chúa lại ưa nói cùng chúng ta từ bên trong bằng những dấu chỉ kín đáo vốn để chúng ta được tự do từ chối lời mời gọi của Ngài. Thiên Chúa muốn được những người con tự do mến yêu, chứ không muốn những tên nô lệ sợ hãi thờ kính.

  1. “Ai đến với Ta…” (c.35). Đức tin bao hàm một bước tự ý, một sự dấn thân. Người ta không thể chỉ ngồi nhìn như khán giả say sưa hay phê bình những gì Chúa Giêsu làm và nói để rồi tùy cơ lợi dụng. Chúa Giêsu chỉ cho no thỏa hoàn toàn và dứt khoát những ai dám bước cái bước quyết định của đức tin. Kẻ tài tử thích nhìn người từ xa thôi sẽ luôn đói. Những ai “đến cùng Chúa Giêsu” sẽ được tràn đầy hoan lạc và an bình. Kẻ ấy sẽ khám phá hương vị đích thực của cuộc sống, là sống bình dị như con cái Thiên Chúa giữa đại gia đình nhân loại được tụ tập quanh Cha.

 

58. Chú giải của William Barclay.

CUỘC SĂN TÌM SAI LẦM (Ga 6,22-27)

Đám đông dân chúng vẫn nán lại bên kia bờ hồ. Vào thời Chúa Giêsu, người ta không cần mở cửa văn phòng theo một giờ nhất định. Họ có thì giờ chờ Chúa Giêsu trở lại với họ, họ chờ vì họ thấy chiếc thuyền các môn đệ chèo đi không có Chúa trong đó nên họ kết luận rằng Chúa Giêsu phải ở gần đây thôi. Chờ đợi một lúc, họ mới biết Chúa không trở lại. Trong vịnh gần đó, có mấy chiếc thuyền nhỏ từ Tibêria đến đậu lại, chắc là tìm chỗ ẩn nấp cơn giông qua đêm. Thế là dân chúng lên các thuyền ấy, vượt biển hồ để trở qua Caphacnaum.

Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy Chúa ở đó rồi. Họ hỏi Ngài đến đó bao giờ. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi ấy. Đây không phải là lúc để trò chuyện về những việc như vậy. Đời sống thật ngắn ngủi, không có thì giờ để tán gẫu về những chuyến đi. Ngài đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Ngài phán “Các ngươi đã chứng kiến những việc lạ lùng, các ngươi đã thấy ân sủng của Thiên Chúa có thể làm cho cả một đoàn dân đông đảo được ăn no, đáng lẽ tâm trí các ngươi phải suy nghĩ về Thiên Chúa là Đấng đã làm những việc ấy, nhưng thay vào đó, các ngươi lại chỉ nghĩ đến bánh. Dường như Chúa Giêsu có ý nói “Các ngươi chỉ biết đến cái bụng nên không thể nghĩ đến linh hồn mình”.

Chrysostom đã nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ ngước cao hơn bức tường thành của thế gian, chẳng biết phóng tầm mắt đến chân trời của cõi đời đời. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen, bấy giờ đã khuya lắm, ngoài trời tối đen, hai người đến gần khung cửa, trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu kim, nhấp nháy sáng. Mắt của Nã Phá Luân thì tinh, còn mặt bạn ông đã mờ. Nã Phá Luân chỉ lên trời hỏi: “Anh có thấy các ngôi sao ấy không?”. Người bạn đáp: “Tôi không thấy”, Nã Phá Luân nói: “Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi với anh”. Người bị buộc chặt vào thế gian chỉ sống được phân nửa đời sống. Chỉ những ai có tầm mắt nhìn xa thấy rộng, nhìn ra các vùng trời xa xăm và thấy được các vì sao mới là người thật sự sống.

Chúa Giêsu dạy bằng một câu nói ngắn gọn: “Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn còn lại đến sự sống đời đời”. Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia đã nêu cùng một câu hỏi như vậy: “Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no?” (Is 55,2). Có hai thứ đói, đói thể xác mà thực phẩm vật chất có thể thỏa mãn được. Một người có thể giàu như Croesus mà vẫn thấy thiếu một cái gì trong đời.

Sau năm 60 SC, xã hội Roma sống trong xa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ, người Roma đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi, người ta ăn uống cho nôn mửa giữa hai bàn ăn, để lần sau thấy ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thông thường. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và dính nhiều châu ngọc trị giá tương đuơng 432.000 Anh kim. Nguyên do của những phung phí đó là sự bất mãn sâu xa, sự đói khát không gì thỏa mãn được. Họ tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có được một rung động mới, hương vị mới, vì họ vừa giàu có nhưng lại vừa đói khát vô cùng.

Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến thỏa mãn thể xác. Họ đã được đãi ăn một bữa dư dật, và họ muốn được ăn nữa. Nhưng có nhiều thứ đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Đó là đói chân lý, chỉ có Ngài mới ban chân lý cho loài người. Đó là đói tình yêu, chỉ có Ngài mới ban cho họ tình yêu vượt trên tội lỗi và sự chết. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn sự đói khát không xoa dịu được của tâm linh con người.

Tại sao Ngài làm được điều đó? Có rất nhiều ý nghĩa qua câu “Bởi vì Thiên Chúa Cha đã đóng dấu trên Ngài”. Trong quyển Phong Tục Phương Đông Tại Xứ Thánh, H. B. Tristam cho biết vài điều thú vị về chiếc ấn trong thế giới cổ. Bên Phương Đông không phải là chữ ký mà là dấu ấn mới có giá trị. Các tài liệu chính trị và thương mại có giá trị khi được in bằng dấu trên mặt nhẫn. Dấu ấn chứng thực cho một bản di chúc, dấu ấn trên miệng bao hay thùng bảo đảm cho vật đựng bên trong. Tristam kể rằng đến người nghèo nhất cũng sử dụng chiếc ấn để chứng thực. Trong những chuyến du hành của ông, khi ký hợp đồng với những người cho thuê lừa, ngựa hoặc khuân vác, họ cũng đóng dấu của họ vào đó để xác nhận rằng họ bắt buộc phải tôn trọng và đồng ý như vậy. Ấn được làm bằng đất nung, kim khí hay kim cương. Trong bảo tàng viện Anh quốc, hầu như có đủ các chiến ấn của của vua Assyri. Dấu ấn được in lên đất sét và miếng đất được gắn vào tài liệu. Nhiều khi tài liệu đã mục nát từ lâu nhưng dấu ấn vẫn còn đó, nếu không có nó thì tài liệu vô giá trị.

Người Pharisêu có câu tục ngữ “Dấu ấn của Thiên Chúa là chân lý”. Kinh Talmud chép “Ngày nọ một đại hội các chuyên gia về luật Do Thái đang hội họp đông đảo, họ cùng nhau khóc lóc cầu nguyện, kiêng ăn, bỗng một cuốn sách nhỏ từ trên trời rơi xuống giữa họ. Họ mở cuốn sách ra, trong đó chỉ có một chữ Ameth, nghĩa là chân lý, cho nên các Pharisêu nói “đó là dấu ấn của Chúa”. Ameth do ba mẫu tự Hy Lạp chép lại: aleph là chữ đầu trong mẫu tự, min là chữ chính giữa, tau là chữ cuối cùng. Chân lý của Thiên Chúa là bắt đầu, chính giữa và kết thúc của đời sống.

Chính vì thế mà chỉ Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Ngài được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể, chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm thỏa mãn cơn đói của tâm linh do chính Ngài tạo nên.

VIỆC LÀM DUY NHẤT (Ga 6, 28-29)

Khi Chúa Giêsu nói đến công việc của Thiên Chúa, người Do Thái nghĩ ngay đến việc lành, làm phước. Người Do Thái tin một người sống tốt lành thì được thưởng ân huệ của Thiên Chúa. Họ chủ trương loài người được chia thành ba hạng: người ngay lành, người xấu xa và người ở giữa hai hạng người đó. Nếu người hạng ba biết làm thêm chỉ một việc lành nữa, thì có thể được chuyển sang hạng người ngay lành. Nên khi hỏi Chúa Giêsu công việc của Thiên Chúa là gì, họ mong Ngài đưa ra các bản liệt kê những gì họ phải làm, nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn không nói đến điều đó.

Chúa trả lời rất cô đọng, nên chúng ta cần phải khai triển và tìm xem những nghĩa nào trong đó. Chúa Giêsu dạy công việc của Thiên Chúa muốn loài người làm là tin Đấng đã được Ngài sai đến. Phaolô cũng đưa chúng ta vào thời điểm đó: Công việc duy nhất mà Thiên Chúa muốn loài người làm là đức tin. Đức tin là gì? Đức tin chính là “mối liên hệ với Thiên Chúa”, đến độ chúng ta trở thành bạn thân của Ngài, không còn sợ hãi Ngài nữa, nhưng xem Ngài là Cha và là bạn thân thiết, đến nỗi chúng ta tin cậy, vâng lời, phục tùng Ngài cách tự nhiên do mối liên hệ mới mẻ đó. Vậy, tin Chúa Giêsu có liên hệ với việc đó như thế nào? Chúng ta chẳng bao giờ biết được Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu không đến, sống và chịu chết để dạy mỗi người chúng ta biết điều đó. Chính nhờ Chúa Giêsu đã đến, qua Ngài chúng ta biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, yêu thương chăm sóc chúng ta, chẳng muốn gì khác hơn là tha thứ cho chúng ta, để sự xa lạ, khoảng cách thù nghịch và nghi ngờ Thiên Chúa không còn nữa, và chúng ta có được mối liên hệ với Ngài.

Một lối sống xuất phát từ mối liên hệ mới đó. Khi đã biết Thiên Chúa thế nào, thì đời sống chúng ta phải phù hợp với những gì mình biết về Ngài. Chúng ta phải đáp ứng theo ba hướng, mỗi hướng đều phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã dạy về Thiên Chúa.

  1. Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế đời sống chúng ta phải biết thương yêu và phục vụ tha nhân, phù hợp với tình yêu và sự phục vụ của Thiên Chúa, tha thứ cho người khác, phù hợp với sự tha thứ của Thiên Chúa.
  2. Thiên Chúa là thánh thiện. Do đó, đời sống chúng ta phải thánh thiện, phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
  3. Thiên Chúa là khôn ngoan. Do đó đời sống chúng ta phải kính phục và tin cậy hoàn toàn, phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu dạy tất cả căn bản của đời sống Kitô hữu ở trong mối liên hệ mới mẻ với Thiên Chúa, do Thiên Chúa khởi xướng, một liên hệ chỉ thực hiện được nhờ mặc khải về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, mối liên hệ xuất phát từ phục vụ, lòng thanh sạch và tin cậy, vốn là tấm gương phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là công việc Thiên Chúa muốn chúng ta làm và giúp chúng ta đủ khả năng để thực hiện.

ĐÒI HỎI MỘT DẤU LẠ (Ga 6, 30-34)

Đến đây, phần lý luận trở thành đặc biệt có tính cách Do Thái trong ngôn ngữ, cách giả dụ và nói bóng. Chúa Giêsu vừa đưa ra một lời tuyên xưng quan trọng, Ngài bảo rằng công việc đích thực Thiên Chúa muốn họ làm là tin Ngài. Người Do Thái nói: “Hay lắm, quả thật đây là lời tự xưng mình là Đấng Mêsia, vậy ông hãy chứng minh đi”.

Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem là bánh của Thiên Chúa (Tv 78,24; Xh 16,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được coi là công việc tối quan trọng trong cuộc sống của Môsê, mà Đấng Mêsia thì phải làm hơn thế nữa. “Vị cứu tinh đầu tiên thế nào, thì vị cuối cùng cũng phải như thế: vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời xuống thế nào, thì vị sau cùng phải khiến được manna từ trời xuống như vậy”. “Các người không thể tìm manna trong đời này, nhưng sẽ tìm thấy manna trong thời sắp tới”. “Manna đã được chuẩn bị cho ai? Cho người công chính của thời sắp tới, mỗi người đều tin, đều xứng đáng được ăn bánh ấy”. Người ta tin có một bình manna được giấu kín trong hòm Giao Ước đặt trong ngôi Đền Thờ đầu tiên. Khi Đền Thờ bị phá hủy, Giêrêmia đã đem giấu đi. Khi Đấng Mêsia đến, dân chúng sẽ được thấy lại manna. Nói cách khác, dân Do Thái đang thách thức Chúa Giêsu hãy khiến bánh từ Thiên Chúa xuống để hậu thuẫn cho những lời tự xưng của Ngài. Họ không chịu xem số bánh năm ngàn người vừa ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Theo họ, manna phải khác hẳn và đó là trắc nghiệm cho Chúa Giêsu Kitô.

Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý nhưng là sự sống. Chúa Giêsu tuyên bố sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.

 

59. Ẩm thực

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Ẩm thực là ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, ăn uống còn là một nét văn hóa – gọi là văn hóa ẩm thực, và có cả một triết lý trong văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa thức ăn và thức uống vào miệng, là việc cần thiết để duy trì sự sống, mà còn thể hiện tính cách một con người. Tiền nhân dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Xem ra việc “ăn uống” quá đơn giản nhưng cũng phức tạp, vì phức tạp nên mới phải học.

Có thể nhờ ăn uống mà người ta thêm hiểu nhau, nhưng cũng có thể do ăn uống mà sinh hiềm khích nhau. Vì sự sinh tồn, nghĩa là vì miếng cơm và manh áo, người ta có thể chém giết lẫn nhau. Chung quy thì chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh giành sự sống lẫn nhau.

Kinh thánh nói về việc ăn uống: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt” (Cn 23:2-3). Còn ca dao Việt Nam cảnh báo:

Miếng ăn là miếng tồi tàn

Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu

TỪ BÁNH VẬT CHẤT…

Trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ vất vả khổ sở nên trách móc các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16:3). Họ trách móc người khác và than thân trách phận vì thiếu thực phẩm, họ không thỏa mãn cái miệng. Chúa biết lắm, thế nên Ngài nói với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16:4).

Rồi Ngài nói thêm với ông: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16:12). Thật vậy, cứ chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan thì trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi dân Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?” (Xh 16:15a). Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh chị em làm của ăn!” (Xh 16:15b). [Xin “mở ngoặc”: Loại bánh-từ-trời đó là Manna, còn được viết là Mana, hoặc al-Mann wa al-Salwa, tiếng Hy-lạp và Latin là Man hoặc Manna].

Đó là điều lạ lùng Chúa làm để thỏa mãn lòng dân, và còn biết bao điều kỳ diệu khác mà hằng ngày Ngài vẫn làm vì chúng ta. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4). Tác giả Thánh vịnh nhắc lại: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Thiên Chúa luôn chiều lòng chúng ta, dù đôi khi chúng ta rất ngỗ nghịch, cao ngạo hoặc phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn im lặng và kiên trì chờ mong chúng ta “giác ngộ” mà nhận biết Ngài là Đức Chúa duy nhất.

Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Khi đã thay đổi lối sống, chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Nhưng không thể “giả vờ” hoặc “ra vẻ” mà phải thay đổi từ đáy lòng, phải thay đổi theo ý Đức Kitô, phải “chết” cho con người cũ và “chết” cho tội lỗi. Tức là phải chịu đau đớn vì tự “banh da, xẻ thịt” của mình vì lý tưởng Kitô. Khó lắm, đâu phải chuyện đùa!

…TỚI BÁNH TRƯỜNG SINH

Khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ đều không có ở đó, họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài nói toạc móng heo: “Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6:26). Nghe rất “sốc”, rất đau, vì họ bị “chạm” vào chính “ý đồ” của họ.

Có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ít-ra-en xưa. Liệu chúng ta đi hành hương có thực sự vì yêu mến Chúa, vì sùng kính Đức Mẹ hoặc các thánh? Chúng ta thường “rỉ tai” nhau: “Chỗ đó thiêng lắm, người ta xin được nhiều ơn lắm”. Và chúng ta cũng cố gắng đến để “được ơn” là chính. Nếu không được ơn thì sao? Chúng ta còn giữ vững đức tin? Những người có “của ăn, của để” mới đủ “khả năng” đi hành hương các Thánh địa hoặc Linh địa, còn những người nghèo thì sao? Vậy người nghèo thiệt thòi quá! Có đoàn hành hương về Thánh địa Giêrusalem với chi phí tới 9 tỷ VNĐ, còn đến các linh địa trong nước cũng tốn bạc triệu. Người nghèo có mơ cũng không thấy, vì họ lo kế sinh nhai hằng ngày còn “sất bất sang bang” thì làm sao có tiền đi hành hương để “xin ơn”? Nếu chỉ những ai đi hành hương mới được ơn thì Chúa bất công!

Liệu chúng ta đi làm việc thiện có vì yêu mến Chúa qua những anh chị em kém may mắn hơn mình? Liệu chúng ta hoạt động tông đồ, tham gia các hội đoàn hoặc các nhóm đạo đức có thực sự hy sinh và chỉ vì muốn vinh danh Chúa?

Chắc chắn những câu hỏi đó “khó” trả lời lắm, và có lẽ chúng ta cũng đang có những tư tưởng phù phiếm! Và chắc chắn Chúa không câu nệ hình thức như chúng ta tưởng hoặc “suy bụng ta ra bụng… Chúa”.

Chúa Giêsu nói: “Quý vị hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:27). Có lẽ họ không hiểu nên liền hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Ngài trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Không biết vì không hiểu hay cố ý không chịu hiểu mà họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Đức Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật quý vị, không phải ông Môsê đã cho quý vị ăn bánh bởi trời đâu, màchính là Cha Tôi cho quý vị ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33).

Ý Ngài hoàn toàn khác, thảo nào…! Nếu chúng ta được trực tiếp đối thoại với Ngài lúc đó thì chắc chắn chúng ta cũng chỉ “như vịt nghe sấm” chứ hiểu gì nổi.

Nhưng với dân Ít-ra-en lại khác, sau khi nghe Ngài nói đến “bánh đem lại sự sống” thì họ nói ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Ga 6:34). Đức Giêsu bảo họ: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Lại nghe quá “sốc”! Bánh gì kỳ lạ vậy chứ? Thế nên chúng ta đừng vội chê trách “người xưa”. Quả thật, nếu là chúng ta thì có lẽ Chúa Giêsu “không có đường về”. Cũng may là chúng ta “sinh sau, đẻ muộn”, được học hỏi và được lãnh nhận đức tin vào Chúa Giêsu từ ngàn xưa truyền lại. Thực sự chúng ta rất may mắn!

Thậm chí chúng ta còn may mắn hơn dân Ít-ra-en, vì họ chỉ được ăn bánh-từ-trời là man-na, còn chúng ta cũng được ăn bánh-từ-trời, nhưng đó là Bánh Trường Sinh, là chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô, để được sống đời đời chứ không bị án phạt mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

SỐNG (CN XVIII TN, năm B – Ga 6:24-35)

Loanh quanh cơm, áo, gạo, tiền

Ngược xuôi ngày tháng, muốn điên cái đầu

Bon chen từ sáng tới chiều

Tóc xanh rũ xuống phai màu thời gian

Có lần Chúa nhắc nhở rằng:

“Sống không chỉ bởi của ăn đời này

Nhưng còn sống bởi lời Ngài

Chính Thiên Chúa phán hằng ngày, người ơi! (*)

Cơm giữa đời, bánh bởi trời

Ngài luôn phân phối, mọi người đủ no

Chuyện sinh nhai lắm nhiêu khê

Nhưng con tin Chúa liệu lo đúng thời

Giọt buồn chợt hóa tiếng cười

Cho con biết phải dâng lời tạ ơn

Man-na, lương thực luôn cần

Bánh Trường Sinh vẫn cần hơn rất nhiều

Diệu kỳ Thánh Thể tình yêu

Hằng ngày con được Ngài trao trọn tình

TRẦM THIÊN THU

(*) Đnl 8:3; Mt 4:4; Lc 4:4

 

60. Cái gì đây?

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Khi chưa biết về vật gì, người ta sẽ thắc mắc: “Cái gì đây?”. Rồi tìm hiểu, nghiên cứu, nhờ đó mà có thể biết đó là cái gì và để làm gì. Khi dân Ít-ra-en đi qua sa mạc để đến Đất Hứa, người ta cũng đã từng thắc mắc khi thấy “vật lạ” từ trời rơi xuống như mưa: “Cái gì đây?”.

Manna hoặc Mana là loại thực phẩm đặc biệt, ăn được, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương, rồi cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), nhưng manna sẽ tan biến khi nắng lên. Từ ngữ manna được đề cập 5 lần trong sách Xuất Hành (Xh 16:26-35), được đề cập 3 lần trong Kinh Koran.

Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn”. Theo Kinh Thánh, manna là “man hu”, có nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?”, hoặc Pháp ngữ là “qu’est-ce que c’est?”. Nhưng người ta cho rằng từ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng A-ram chứ không phải là tiếng Do Thái.

Trình thuật Xh 16:2-4. 12-15 cho biết: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ nói: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!”. Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Vì miếng ăn người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí không ngần ngại bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp hết! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể mất chỉ vì miếng ăn. Khốn nạn thật!

Nhà ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) nói: “Cái bụng đói không thể lắng nghe”. Và rồi, cũng chỉ vì cái bụng đói cồn cào, thằng Bờm chứ không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay, thực tế là thế đó! Danh y Anthony: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh”. Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật.

Thiên Chúa cũng rất thực tế, Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên Ngài phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không”. Và Ngài cho ông Mô-sê biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.

Thật vậy, vào buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây?”. Ông Mô-sê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Thật hay mơ? Nếu thật như thế thì đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh để ăn. OK lắm!

Thiên Chúa thử thách chúng ta không phải vì Ngài không biết nên phải “dò sóng”, mà Ngài biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài thử thách để tôi luyện niềm Tin Cậy Mến của chúng ta mà thôi. Một khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4).

Với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, một lời tuyên phán là có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Ít-ra-en băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước (Xh 14:15-31). Manna và chim cút chỉ là “chuyện nhỏ của chuyện nhỏ” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Manna được gọi là “bánh thiên thần”, nhắc chúng ta nhớ tới Bí tích Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng, còn dân Ít-ra-en xưa không hề biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà không biết tạ ơn Chúa đấy!

Thánh Phaolô nói: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Lời khuyên dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn “nóng hổi” với chúng ta ngày nay, vì chúng ta vẫn chưa loại bỏ được sự ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo. Nói hay, muốn nhiều, làm chẳng bao nhiêu!

Chẳng oan ức gì đâu, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:20-24). Quả thật, phàm nhân chúng ta vẫn mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ. Bao Mùa Vọng, bao Mùa Chay, bao kỳ tĩnh tâm, bao lần xưng tội, bao lần quyết tâm,… Tất cả cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu! Đúng như tiền nhân ví von: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ”. Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?”. Lý do thực tế và đơn giản lắm, vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon), và “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Khốn nạn thân tôi!

Thấy manna, dân Ít-ra-en lấy làm lạ, vì chưa hề thấy bao giờ, thế nên họ hỏi nhau: “Cái gì thế nhỉ?”. Tương tự, khi thấy người lạ, chúng ta thường hỏi: “Ai đây?”. Và còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường này. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Biết thắc mắc đúng sẽ dẫn tới sự khôn ngoan.

Một hôm, khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ cũng không có ở đó, thế là họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi gặp thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:26-27). Khi cầu nguyện, chúng ta cũng thường chỉ muốn xin là chính, nhất là muốn “xin như ý mình”, mà lại quên chúc tụng và tạ ơn! Chúng ta có đáng trách không nhỉ? Chắc chắn ngại trả lời ghê đi!

Nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt lành biết bao, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Và Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Thì ra họ chẳng thành tâm chi cả, mà họ chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Đúng là họ dốt mà chảnh. Và chúng ta cũng thế!

Đức Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33). Có lẽ lúc này họ đã “sáng mắt” nên họ liền xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt. Và Chúa Giêsu xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Và họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai”.

Tuy nhiên, đó là sự thật, thật hơn cả sự thật. Ngày nay, chúng ta may mắn hơn họ vì đã được hưởng di sản quý báu vô cùng: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền. Và chúng ta không phải thắc mắc như dân Ít-ra-en xưa: “Cái gì thế nhỉ?”. Vâng, chúng ta thực sự vô cùng may mắn!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thắc mắc đúng và tìm hiểu cho thấu đáo, nhờ đó mà có thể duy trì ba nhân đức đối thần trong mọi hoàn cảnh. Vâng, lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin cho con, để nhờ vững tin mà con có thể trông cậy nơi Ngài, và yêu mến Ngài qua tha nhân. Xin cho con được no thỏa ân tình Thiên Chúa và Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Linh, đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Để Trở Nên Kitô Hữu Tốt

Không ai dám nói rằng làm Kitô hữu quá dễ, chẳng có gì khó. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta mọi thứ và cũng đòi chúng ta đáp trả mọi thứ – thời gian, tài năng, chính mình. Chúng ta được kêu gọi trở nên sứ giả của Đức Kitô, và phản ánh Thiên Chúa trong mọi động thái của chúng ta.

Nhưng trong cuộc sống thường nhật, chúng ta có đầy những trách nhiệm, bổn phận và những viẹc phải làm, chúng ta thường “mất dấu” tiếng gọi cao cả nhất.

Dưới đây là một số đề nghị về cách đến gần Thiên Chúa và sống yêu thương tha nhân. Một số điều dễ thực hiện, nhưng một số điều cần nỗ lực hơn. Nhưng tất cả đều có thể giúp bạn theo chân lý: Sống đời Kitô hữu, đó là cuộc sống của bạn – nhưng không là của riêng bạn.

  1. Hãy sáng tác, nghiên cứu, vẽ, viết, hát,… và sáng tạo. Cứ thử nghiệm với sự sáng tạo ngay cả lúc bạn cảm thấy “trống rỗng”, và hãy làm nhân Danh Thiên Chúa. Tại sao? Vì bất cứ điều gì cũng được làm để dâng kính Thiên Chúa qua sự sáng tạo vô biên của Ngài. Một lý do khác là bạn có thể thấy rằng Thiên Chúa đã trao ban cho bạn những tặng phẩm mà chính bạn cũng không hề biết mình đang có.
  2. Rất nhiều Kitô hữu coi nhà thờ như “điểm hẹn” hằng tuần: Cứ vào rồi ra và về nhà – đôi khi than vãn rằng nhà thờ là nơi không sống động. Nhưng các nhà thờ cũng sôi nổi như lời chúc mừng. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng chúng ta là “chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô”, như vậy tất cả chúng ta đều được yêu cầu thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Hãy tìm ra “cái tài riêng” của mình để có thể phục vụ Giáo hội địa phương tốt hơn.
  3. Nghiền ngẫm Lời Chúa có thể là lĩnh vực quan trọng nhất trong việc trở thành một Kitô hữu trưởng thành. Mỗi ngày hãy dành một khoảng thời gian nhỏ để đọc Kinh thánh để có thể gợi hứng và hướng dẫn người khác, chính điều đó cũng giúp bạn tập trung vào những gì quan trọng nhất.
  4. Điều này không có nghĩa là bạn phải làm việc gì to tát. Chỉ cần biết các Kitô hữu tôn kính Thiên Chúa thế nào. Nhiều tôn giáo thuộc Kitô giáo có sức thu hút khá mạnh, hãy tìm hiểu cách thờ phượng của họ để có thể hiểu thêm về các Kitô hữu, nhờ đó mà bạn đánh giá đúng về họ và chính mình.
  5. Không gì tốt hơn là tự nhắc mình nhớ tới các tặng phẩm của Thiên Chúa hơn là lưu ý sự ngoạn mục và hùng vĩ của các tặng phẩm đó. Hãy ra bờ biển, lên núi, vào rừng, hoặc chỉ cần vào công viên, và dành thời gian chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa, cả điều to và nhỏ. Bạn sẽ nhận thấy Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu!
  6. Hãy phục vụ nhau. Hãy dạy chữ cho các trẻ em chịu thiệt thòi và bất hạnh. Hãy trao tặng cho người khác tặng phẩm quý nhất: Thời giờ của bạn. Nhờ phục vụ người khác, bạn có thể noi gương cách phục vụ của Chúa Giêsu và chuyển tải tình yêu của Ngài, chỉ cần tập sống tình nguyện phục vụ.
  7. Hơn 2.000 năm qua, một số người trí thức đã xử lý các nghịch lý “gai góc” của đức tin Kitô giáo. Qua những lời của Thánh Augustinô và Thánh Thomas Aquinas, hoặc của C. S. Lewis và nhiều người khác, đều có những cách giáo dục, sự thú vị, và sự kỳ lạ.
  8. Thiên Chúa không bao giờ muốn chúng ta sống quá thoải mái và ung dung hưởng thụ. Để trở thành người như Thiên Chúa muốn, chúng ta phải luôn tìm kiếm sự thách thức mới – những dịp học hỏi đó là những bài học quan trọng mà chúng ta có thể thực hành vào lúc nào đó. Điều này không dễ, nhưng không gì hơn như vậy!
  9. Một số ý tưởng, cảm xúc và hành động có thể trở nên sự hướng dẫn quan trọng trong “bước tâm linh” của bạn. Nếu nhìn lại quá khứ, bạn có thể ngạc nhiên vì chính bạn đã trưởng thành tâm linh hơn nhiều.
  10. Hơn 2.000 năm rồi, Giáo hội Công giáo đã giúp một số Kitô hữu trở thành những tấm gương sáng sống động cho chúng ta. Nhiều vị đã được tôn phong hiển thánh, chân phước (á thánh), bậc đáng kính, tôi tớ Chúa. Một số các vị này, dù chính thức hay không, đều được tuyển chọn vì có đời sống anh dũng, dám quên mình hoặc xả thân vì công ích. Cuộc sống của họ có sức động viên chúng ta đấu tranh vì Chúa nhiều hơn.
  11. Thánh Phaolô nói rằng “thân xác là đền thờ” – thân xác cần tập luyện để duy trì sức khỏe, linh hồn cũng vậy. Tập luyện thân xác (yoga, thiền, thể dục,…) giúp thăng tiến tinh thần, hãy tập trung vào những điều thuộc lĩnh vực tâm linh.
  12. Bắt đầu với Chúa Giêsu và các Tông đồ, Kitô giáo luôn có đức tin chung, nghĩa là chúng ta cùng nhau tìm kiếm Thiên Chúa. Bằng cách chia sẻ sự hiểu biết, chúng ta xây dựng trên kiến thức của người khác – và có thể giúp đỡ nhau qua những mảng kiến thức riêng.
  13. Kitô giáo mang tính cộng đoàn. Tân ước cho biết rằng các Kitô hữu đầu tiên quan ngại về bệnh tật, sự nghèo nàn và các vấn nạn của thời đó. Như vậy, chúng ta được kêu gọi quan tâm thế giới xung quanh, và nền dân chủ có nghĩa là bầu cử – bất kể nguồn gốc chính trị nào. Đó không chỉ là nhiệm vụ dân sự, mà còn là bổn phận Kitô hữu. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở nên chân và tay của Ngài để chúng ta có thể làm cho tình yêu Thiên Chúa được cảm nhận ở khắp mọi nơi.
  14. Mỗi ngày, hãy đến với Thánh Thể, dành thời gian để tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện liên lỉ. Điều này giúp chúng ta biến đổi dần dần.
  15. Thiên Chúa vui thích khi chúng ta tận hưởng những tặng phẩm của Ngài. Không tặng phẩm nào quý giá bằng chính gia đình của mình. Hãy cùng nhau đồng bàn mỗi bữa ăn, không chỉ chia sẻ lương thực phần xác mà còn chia sẻ cả những món ăn tinh thần. Khi chúng ta làm cho người thân hạnh phúc, chúng ta cho họ thấy diện mạo yêu thương của Thiên Chúa, điều này thực sự quan trọng.
  16. Bạn không cần phải tới Giêrusalem hoặc đi đâu xa mới có thể đánh giá đúng về Thiên Chúa. Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào chúng ta tới: Chúng ta thấy sức mạnh của Ngài trong biển cả, sự uy nghi của Ngài nơi núi rừng, tài nghệ của Ngài nơi nương đồng,… Thiên nhiên luôn mang dấu ấn của Ngài. Hãy cao rao lòng thương xót vô biên của Ngài.
  17. Có thể một trong những điều khó nhất là làm Kitô hữu. Khi chúng ta bị tổn thương, điều cuối cùng chúng ta muốn là thoát khỏi đau khổ đó: Chúng ta muốn trừng phạt người đã làm chúng ta tổn thương. Nhưng khi làm vậy, chúng ta lại tự trừng phạt chính mình. Đức Kitô kêu gọi chúng ta nới lỏng nắm tay và tha thứ cho những người làm hại chúng ta. Nếu làm vậy, chúng ta không chỉ tha thứ người khác mà còn tha thứ chính mình.
  18. Thiên Chúa có thể nói trong cơn động đất và bão tố, nhưng Ngài thường nói bằng tiếng nói nhỏ nhẹ. Hằng ngày hãy dành thời gian để giữ im lặng và lắng nghe Tiếng Chúa. Bạn sẽ ngạc nhiên về những gì bạn nghe được.

PAUL ASAY

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

*****

Sự Thật về Tình Yêu Thương

Một vị giảng phòng cho ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Tình yêu con người và tình yêu Thiên Chúa luôn song hành, và phân tách hai tình yêu ấy dẫn đến những vấn đề tạo ra sự xa cách cả bên trong và bên ngoài giáo hội”.

Lm Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô (Capuchin), nói rằng người ta tin sai lầm đến nỗi mà tình yêu người ta dành cho nhau và dành cho Thiên Chúa không tương xứng với tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa trao ban cho con người như thế đã góp phần tục hóa Tây phương và cả sự lệch lạc trong những người được thánh hiến.

Hai cách diễn tả tình yêu có thể được hòa giải bằng cách đặt tình yêu của Chúa Giêsu Kitô trước mọi thứ, Lm Cantalamessa nói trong lần suy niệm đầu tiên trong mùa Chay 2011 đã bày tỏ với ĐGH và các viên chức Tòa thánh.

Lm Cantalamessa, người giảng phòng cho ĐGH, đã được mời giảng và suy niệm trong những dịp đặc biệt – kể cả mùa Chay. ĐGH Biển Đức XVI đã cùng với một số tiến sĩ quan trọng của giáo hội giải thích tính đồng nhất của “hai gương mặt tình yêu: eros và agape”. Lm Cantalamessa đã nói về thông điệp “Deus Caritas Est” (Thiên Chúa là Tình yêu) năm 2006 của ĐGH Biển Đức XVI để giải thích tầm quan trọng của việc kết hợp các khái niệm được tiếng Hy Lạp xác định là eros, tình yêu giữa người nam và người nữ có thể nâng cao tình yêu lên Thiên Chúa, và từ agape, tình yêu quên mình được diễn tả rõ ràng nhất bằng sự hạ mình xuống làm người nơi Đức Kitô.

Lm Cantalamessa nói: “Sự tục hóa và nhần mạnh vào eros đã tách tình yêu nhân loại ra khỏi tình yêu Thiên Chúa trong mọi hình dạng, làm giảm tình yêu đó thành hoàn toàn ‘trần tục’, mà Thiên Chúa lại ‘yêu quá nhiều’ và thậm chí phiền toái”. Mặt khác, Tình yêu Thiên Chúa được phân biệt bởi “agape mà không eros” là phổ biến đối với một số người sống đời thánh hiến chỉ là “tình yêu lạnh nhạt”.

Lm Cantalamessa nói thêm: “Nếu tình yêu nhân loại dẫn đến các mối quan hệ và tình yêu xúc cảm đối với Thiên Chúa bị từ chối hoặc bị ngăn chặn thì hệ quả chỉ là để con người thực hiện với sự mệt mỏi vì trách nhiệm, hoặc để tìm kiếm sự đền bù có thể không phù hợp, kể cả những giai đoạn đau khổ nhất mà chúng ta đã thấy, một sự ám chỉ việc lạm dụng tình dục trẻ em của các người trong Giáo hội”.

Nguồn gốc của các động thái “lệch lạc luân lý” của một số người được thánh hiến là “khái niệm méo mó về tình yêu” (distorted and contorted concept of love). Lm Cantalamessa nói: “Nếu tình yêu trần tục giống như cơ thể không có linh hồn, kiểu sống tu này như linh hồn không có cơ thể”.

Ngài chỉ ra rằng, trong thông tri của ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Eros và agape là tình yêu hướng thượng và khiêm hạ có thể hoàn toàn không bao giờ tách rời nhau và chúng được kết hợp bằng nguồn tình yêu là Thiên Chúa”.

Việc chấp nhận tình yêu nhân loại và luyến ái được ĐGH giải thích có lợi cho những người đang yêu, kể cả các Kitô hữu trẻ đã kết hôn, bằng cách “cho thấy vẻ đẹp và sự xứng đáng của tình yêu kết hiệp”. Sứ điệp của ĐGH Biển Đức XVI là “niềm hy vọng cho thế giới”.

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ National Catholic Register)

home Mục lục Lưu trữ