Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1378457

TRỞ VỀ CÙNG CHA

Trở về cùng Cha – Huệ Minh

Ta đang bước vào những ngày cuối của Mùa Chay. Trang Tin Mừng Chúa nhật IV mùa Chay hôm nay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản.

Có bao giờ chúng ta trải qua khốn khó để rồi ta cảm được kinh nghiệm đó chưa?

Phải chăng đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi kiểm tra sức khỏe, làm các xét nghiệm, gặp bác sĩ khám và nhận được kết quả tốt đẹp là không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Ðó là trải nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Ðó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng.

Đứng trước những cảnh bi thương đau đớn đó, trong hoàn cảnh đó ta sẽ cảm thấy thấm thía ý nhị của Thánh vịnh 124: “Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát”.

Đoạn sách Giosuê mà ta vừa nghe đã kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Ðất Hứa. Từ nay, họ không còn phải đối diện với những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Qua đau khổ, dân Chúa chọn đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống.

Đến đất mới, dân Chúa đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn”.

Sang tâm tình của thánh Phaolô đã nhắc cho giáo đoàn Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được. Ðó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.

Công cuộc tái tạo hay nói khác đi là trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa.

Cũng vì tội lỗi và chính tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: “Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Ðấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa”.

Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Ðất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.

Với Trang Tin Mừng quá quen thuộc, thuộc đến độ ta có thể nhớ nằm lòng từng chi tiết, từng câu nói của các nhân vật trong dụ ngôn mà ta quen gọi là “dụ ngôn người con hoang đàng”.

Ta thấy Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Ðể an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: “Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi”, Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về.

Và rồi ta thấy hình ảnh của người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con.

Trái ngược lại với người em, người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.

Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương. Ðó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời “Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan”.

Với trang Tin Mừng này, ta sẽ noi gương ai? ta sẽ làm gì?

Không thể ngồi đó để nói suông như bao người đã nói, ta phải làm một hành động chứng tỏ ta nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha ta, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người.

Đơn giản, chỉ cần một sự cố gắng, một hành động thực tế có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ.

Bước đi một bước nữa, ta học bài học từ người anh: Ta không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Ta hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha ta khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.

Ta vẫn xin Chúa cho ta vượt qua con người yếu đuối của ta để ta có lòng chạnh thương như người Cha để tha thứ, để đón nhận tất cả những yếu đuối của anh chị em đồng loại. Và phần ta, trong tư cách là người con, ta biết trở về với Cha để ta nhận được lòng thương xót của Cha.

 

78. Thiên Chúa của chúng ta là thế đó!

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Có một câu chuyện kể lại như sau: một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng: đêm qua Chúa mới hiện ra với bà.

Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo: “Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Người ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’ Sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.

– “Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con”.

– “Thế bà có hỏi Ngài không?”

– “Thưa có chứ”.

Cha xứ bắt đầu hồi hộp:

– “Bà hỏi thế nào?”

– “Thì con hỏi y như Cha đã bảo: ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’”

Cha xứ càng hồi hộp thêm:

– “Vậy Chúa có trả lời không?”

– “Có chứ”.

Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:

– “Chúa nói sao?”

– “Chúa nói: ‘Ta đã quên hết rồi’”.

Cha xứ thở phào nhẹ nhõm!!! (Kể theo ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận).

Vâng! Thiên Chúa của chúng ta là như vậy. Ngài yêu thương và sẵn lòng tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta. Tình yêu của Người là một tình yêu luôn đi bước trước và hướng tha. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đức Giêsu kể các dụ ngôn hôm nay.

  1. Thiên Chúa là Đấng Thương Xót

Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu nhiều lần và nhiều cách Ngài mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa cho các Tông đồ và dân chúng. Rõ nét nhất chính là nơi ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng xu đánh mất và người cha nhân hậu (x. Lc 15,1-32).

“Nơi các dụ ngôn này, chúng ta thấy toát lên một điều rõ rệt, đó là Thiên Chúa luôn sung sướng, vui mừng hân hoan khi thực hiện được một hành vi tha thứ, đây là điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ” (x. Tông Sắc LTX., số 9).

Căn tính này thật rõ nét nơi hình ảnh người cha nhân hậu. Nơi người cha này, ông đã không màng chi đến tội lỗi của đứa con hư thân mất nết, ông cũng chẳng mong anh ta phải nói lên lời xin lỗi sau những tháng ngày sa đọa… Nhưng, với ông, ông chỉ canh cánh một điều là: mong sao nó trở về để tha thứ và yêu thương. Thế nên, khi thấy đứa con tội lỗi trở về trong thân hình tiều tụy thê lương, ngay lập tức, một loạt cử chỉ phi thường của tình yêu đã được ông hành động như: chạy ra, ôm hôn, truyền mang áo đẹp mặc cho cậu, xỏ vào tay, mang dép vào chân và mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 20-23). Niềm vui tha thứ này diễn tả niềm vui Nước Trời, bởi lẽ, Thiên Chúa “muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (x. Mt. 9, 12-13), nên: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 10). Đây cũng là biểu hiện của sự thành công và quyền năng của Thiên Chúa khi lòng thương xót của Người đến được với đối tượng cần ơn tha thứ, vì: “Thực thi lòng thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt để Ngài bày tỏ sự toàn năng của Ngài” (Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4).

Chính vì lẽ đó, nên khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã sống và mạc khải cụ thể cách trung thành về lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại qua chính cuộc đời, hành động, lời rao giảng và nhất là nơi cái chết trên thập giá, để qua đó, nhân loại hiểu được rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

  1. Sứ điệp cho Giáo Hội

Phụng vụ hôm nay, Đức Giêsu muốn mặc khải cho Giáo Hội là hiền thê của Ngài biết rằng: “Lòng thương xót là bản chất của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót này đã nuôi dưỡng, chống đỡ và trở thành mục đích của Người”.

Điều này đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc đến trong Tông Sắc về Lòng Thương Xót. Ngài viết: “Trụ cột nâng đỡ đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. Tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng thương xót. Tình yêu, thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng cố tính cách đáng tin của Giáo Hội”. Và ngài cảnh tỉnh: “Có lẽ từ lâu chúng ta đã quên trình bày và sống theo lối đi của lòng thương xót. […] Thật đáng buồn khi nhận ra trải nghiệm về tha thứ ngày càng trở nên hiếm thấy trong nền văn hóa ngày nay. Kể cả đôi khi từ ngữ này dường như cũng đang dần biến mất! Tuy nhiên, không có chứng từ của sự tha thứ, thì đời sống sẽ cằn cỗi không sinh hoa trái, như bị cô lập trong vùng hoang mạc trống vắng!”. Và ngài mời gọi: “Đã đến lúc Giáo Hội phải thực thi phận vụ hân hoan loan báo sự tha thứ. Đã đến lúc trở về với điều căn bản là mang lấy những yếu hèn và khó khăn của anh chị em chúng ta. Sự tha thứ là động lực làm bừng lên sức sống mới và truyền thêm can đảm để giữ vững niềm hy vọng cho tương lai” (x. Tông Sắc LTX., số 10).

Lời mời gọi thực thi lòng thương xót dành cho Giáo Hội là hiền thê của Đức Giêsu, thì cũng là lời kêu mời dành riêng cho mỗi chúng ta.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

“Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót” (Lc 6,36). Đây là: “Luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy trên đường đời. Lòng thương xót là con đường nối kết Thiên Chúa với con người, hướng lòng chúng ta về niềm hy vọng sẽ được yêu thương luôn mãi, bất chấp tội lỗi của chúng ta” (x. Tông Sắc LTX., số 2).

Qua các dụ ngôn hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa, đó là quảng đại, tha thứ, nhẫn nại và yêu thương.

Vì: “Nếu Chúa đã chà đạp và ném mọi tội lỗi chúng ta xuống lòng biển sâu” (x. Mk 7,18-19), thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải vứt bỏ tội lỗi của anh chị em mình sang một bên, để chỉ còn tình yêu và lòng tha thứ ngự trị nơi hành động, lời nói và tâm tưởng của ta.

Muốn làm được điều đó, chúng ta phải cảm nghiệm được sự vĩ đại của tình yêu mà Thiên Chúa đang dành cho mình, bởi lẽ: nhiều lúc, chúng ta cũng hoang đàng như người con thứ, cũng phung phí tiền bạc, thời giờ, sức khỏe và Ơn Thánh cách vô bổ; hay nhiều khi chúng ta cũng kiêu ngạo, tự phụ, để rồi khinh bỉ, rũ bỏ và loại trừ những người tội lỗi, không cho họ có cơ hội để trở về với lòng thương xót của Thiên Chúa như người con cả… ấy thế mà Chúa vẫn thương. Đây là mầu nhiệm vĩ đại, vì Thiên Chúa của chúng ta là như thế. Ngài luôn quên hết mọi lỗi lầm của ta và chỉ mong một điều, đó là ơn tha thứ được đến với ta mãi mãi.

Mong sao, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con thứ để thưa lên với Đấng Giàu Lòng Thương Xót rằng: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con vì con là kẻ có tội”; đồng thời tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa vì Ngài đã phán: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1, 18), và hãy biết tha thứ như Thiên Chúa là Đấng hay Thương Xót để chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Amen.

 

79. Lòng Thương Xót cho tất cả chúng ta – Dã Quỳ

Giữa màu tím của Mùa Chay Thánh, hôm nay Giáo Hội dành Chúa Nhật thứ IV gọi là Chúa Nhật hồng. Màu hồng ấy nói lên niềm vui mừng vì được yêu thương, được đón nhận và tha thứ. Cho dù con người có lỗi lầm và ở trong tình trạng nào đi nữa, nhưng…”Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hơn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.”(Tv 33,6) Bởi vì Chúa nhân hậu và tốt lành biết mấy. Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu không biên giới của người cha khi đón nhận vô điều kiện đứa con thứ tội lỗi trở về và nhẫn nại xót thương với người con cả – là một mạc khải cốt yếu về Thiên Chúa mà chính Chúa Giêsu muốn vén mở cho chúng ta. Thiên Chúa, như người cha không bao giờ thất vọng về những đứa con của mình.

Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người cha nhân hậu, một câu chuyện sống động, bởi vì những người lãnh đạo tôn giáo thời ấy đã tức giận về việc Người ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế. Thế nên, trong dụ ngôn này không phải là người con thứ mà người cha mới là trung tâm của dụ ngôn.

Người cha đã yêu thương, tôn trọng tự do và quyền tự trị của các con mình. Ông đau khổ chấp nhận để con ra đi. Nhưng ông hy vọng rằng sẽ có một ngày khi con trưởng thành, nó sẽ hiểu được tình yêu của cha nó.

Với ý nghĩ nổi loạn và không muốn phục tùng cha, người con thứ đã muốn được nắm quyền tài sản của anh “Xin cho con phần tài sản con được hưởng.”(Lc 15,12) Anh ta nghĩ sẽ được tự do khi rời khỏi cha và sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn mà không cần cha. Đây phải chăng cũng là tư tưởng của nhiều người trong thời đại chúng ta: Chống đối, bất tuân phục và từ chối Thiên Chúa!

Rời xa cha và mái nhà… anh ta tự do, tự lập và bắt đầu sống phung phí. Với một cuộc sống ăn chơi sa đọa, dẫn đến tiêu tán hết tài sản là lẽ dĩ nhiên. “Khát vọng tự do” nghe có vẻ nhẹ nhàng và dễ thương. Thế nhưng, ma quỉ luôn có trăm phương ngàn kế lôi kéo và hấp dẫn chúng ta đi theo và đi đến nguy cơ suy tàn, hư mất.

Phúc thay anh ta nhận ra sự khốn cùng của mình và quyết tâm trở về “Anh ta đứng lên và đi về cùng cha…Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha.” (Lc 15, 20a.21) Đây là một bước can đảm và quan trọng. Có trở về, anh mới được phục hồi địa vị là con, mặc dù anh chỉ ước ao được là đầy tớ. Chỉ trờ về, anh mới nhận ra lòng tha thứ và tình yêu vô bờ của cha.

Và đây là những gì cha của anh thực hiện để đón đứa con ngỗ nghịch trở về “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để.” (Lc 15,20) Người cha già nhiều năm tháng mòn mỏi chờ con thì sức cạn, mắt mờ…! Thế mà, từ đằng xa ông đã nhận ra bóng dáng con mình và ông chạy. Chạy để rút ngắn thời gian dù chỉ là vài phút để được sớm gặp con vì ông đã trông ngóng từng giây. Sức mạnh của tình yêu khiến chân ông khỏe và mắt ông sáng hơn. Ông hôn lấy hôn để con, đúng ra là chỗ dành cho hình phạt vì tội nó. Choàng tay ôm con để che phủ hết tội lỗi của con. Tình yêu bao dung đã giữ ông không tính tội con mà thay vào đó là chăm sóc những vết thương của con để nó không còn một vết sẹo hay sự xấu hổ, ngại ngùng nào. Ông đã sinh lại con một lần nữa.

Chẳng cần nghe con thú lỗi, ông chỉ còn yêu thương và vui mừng. Bây giờ tất cả việc phải làm là “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân và…mở tiệc ăn mừng.”(Lc 15,22-23) Ân phúc anh nhận được từ cha hơn cả những gì anh mơ ước. Tấm áo mới nói lên tình thương cha vẫn dành cho con và tất cả y phục ấy anh mang nói lên rằng “Con vẫn là con cha như thuở nào.” Vì tội lỗi và vì cuộc sống xa gia đình, nay con đã trở về, đón nhận tình tha thứ của Cha và hiểu sâu hơn tình yêu cha dành cho con và bây giờ con được yêu thương biết bao. Thế nhưng, còn anh cả của con, người vẫn ở trong gia đình thì sao?

Chúng ta thường nghĩ câu chuyện này là chuyện nói về người con thứ. Thế nhưng, như Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu và vấn đề là về người con cả hơn là người con thứ. Hãy chú ý đến sự tức giận vì ganh tị của anh cả, người không đón nhận niềm vui dạt dào của cha anh ta và tự tách khỏi những người trong nhà của mình. Thay vì phục vụ cha với tình con thảo, anh chỉ có tư tưởng là phải hầu hạ. Là con nhưng anh luôn sống với tinh thần là đầy tớ. Dù ở trong nhà, ngay bên cha nhưng lòng anh lại xa cha mình biết bao! Thiếu tình yêu với cha nên anh cũng chẳng thể yêu thương em mình. Anh ta đã không hiểu một điều lớn lao đó là tình yêu của cha dành cho anh!

Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tự vấn để biết mình đang ở trong vai của nhân vật nào trong dụ ngôn: Chúng ta đã tha thứ cách quảng đại như người cha đã tha cho đứa con thứ của mình và nhẫn nại yêu thương con cả? Tất cả chúng ta đều có lỗi lầm, lúc này hay lúc khác. Hãy nhận ra sự thật về mình và can đảm đứng lên, trở về với anh em, cha mẹ và nhất là Cha trên Trời để cảm nhận, đón nhận tình yêu tha thứ mà Cha luôn dành cho ta. Chúng ta cũng đã cảm thấy ganh tị và từ chối những ai được ưu ái và thương yêu hơn chúng ta.

Là con thứ hay con cả, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đấng tha thứ không cùng và đón tiếp vô hạn những người con lầm lỗi, thương tích. Nhưng không chỉ tha thứ, mà Cha còn vui mở tiệc mừng con trở về như chính Chúa Giêsu đã nói “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối…”(Lc 15,7) và dành cho con tất cả gia sản của Cha “Con à, tất cả những gì của cha đều là của con.”(Lc 15,31) Vậy không thể chần chừ hay chậm trễ nữa. Hãy trở về với Cha.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và sáng suốt để nhận biết những điều xấu, những lỗi tội của chúng con và quyết tâm trở về thực sự với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Amen.

 

80. Hỏng hết! Hỏng hết – Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Cứ mỗi lần chia sẻ hay giảng giải về đoạn tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay C (Lc 15,1-3;11-32) tôi thường bị cám dỗ phân tích tỉ mỉ từng chi tiết hình ảnh người con thứ, tạm gọi là đứa con hoang đàng. Phân tích tỉ mỉ theo kiểu chú giải Thánh Kinh cũng có, theo cái nhìn tu đức cũng có, rồi sau đó áp dụng cho hoàn cảnh hiện nay. Và không thể bỏ qua, nói đúng hơn là luôn nhấn mạnh đến hình ảnh người cha nhân hậu. Còn hình ảnh người con cả, tuy có phân tích, nhưng chỉ như vai phụ.

Khi người con thứ xin cha chia gia tài là lúc nó muốn cha nó chết quách cho rồi, vì theo luật bấy giờ người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã qua đời. Nhiều người, đặc biệt kể từ thế kỷ Ánh sáng đến nay đã bị cám dỗ muốn “Thiên Chúa biến đi” để mình được tự do và thực sự là mình, mà nói theo ngôn ngữ triết học là để mình khỏi bị vong thân. “Con không cha như nhà không nóc”. Một người con khi đã muốn giết cha thì bất cứ sự xấu xa nào cũng có thể làm. Ăn chơi đàn đúm là chuyện tất yếu kéo theo, nhiều khi chỉ là chuyện nhỏ. Hậu quả nhãn tiền của chuyện ác giả ác báo vẫn thường xảy ra đây đó. Sau thoáng lên mây thì xuống kiếp đọa đày là điều vẫn thường thấy. Mang kiếp đốn mạt, thua cả heo vốn là sự không thể tưởng theo quan niệm của người Do Thái lúc bấy giờ, thế mà đó là thực trạng của đứa con bất hiếu, hoang đàng. Quay đầu là bờ ư? Anh này chỉ biết nghỉ đến cái bụng mình thôi. Kẻ gian vốn thường làm ra vẻ ngoan. Môi dẻo, lưỡi cũng lắt léo với câu thú tội đã nhẩm đi nhẩm lại để khỏi vấp.

Bóng càng đen thì ảnh càng rực sáng. Không ngại ngần ẩn mình hay chết đi, không chỉ với đứa kêu xin, mà với cả đứa còn lại. Người cha đã chia gia tài cho cả hai. Có nhiều kiểu nói không thành lời nhưng luôn đầy ý. Người con cả tuy ở trong nhà, nhưng anh ta không thực sống phận con thì người cha vẫn không tồn tại trong tâm khảm của anh. Dù con không nhìn hay chẳng nhận thì cha vẫn mãi là cha: “mọi sự của cha cũng là của con.” Từng ngày, từng giờ, ông còn mỏi mòn ngóng trông đứa con xa nhà. Ô kìa nó đây! Ông vội chạy đến ôm con hôn lấy hôn để, bất kể mùi uế tạp lẫn bụi đường khắp cả mình con. Không cần nghe trọn lời xưng thú, cũng chẳng cần tra khảo thứ loại tội hay số lần nó đã phạm: Phạm tội gì? Phạm ra sao? Phạm mấy lần?…”Mau đem áo đẹp ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay cậu, xỏ giày vào chân cậu!” Tình yêu cha đủ làm con sạch hơn mọi thứ nước của trần gian. ông lại còn sai bắt con bê đã vỗ béo để mở tiệc ăn mừng. Quả là một sự chuẩn bị trong niềm hy vọng sắt son. Tình yêu là thế: Không bao giờ chịu bó tay vì chẳng hề thất vọng bao giờ.

Không cần biết lý do, cũng chẳng cần xem xét quá khứ của nó, chỉ biết là nó đang ở đây, nghĩa là con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Từ câu chuyện kể đến cảnh hiện thực trên đồi sọ năm xưa: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 26-3,43).

Hỏng! Hỏng hết Chúa ơi! Thương yêu kiểu này thật là vô lý. Chỉ tổ vẽ đường cho hươu chạy hay bắc cầu cho chuột leo mà thôi. Xin đừng làm cớ cho người ta ỉ lại! Thế là hỏng, hỏng hết! Chúa yêu thương kiểu này thì người ta tha hồ ăn chơi sa đọa mà chỉ cần một chút sám hối là dư lời cả Nước Trời. Lại có người chẳng cần đến các bí tích, lễ lạc, chẳng cần vào tòa xưng thú tội lỗi, chắc họ sẽ theo anh em Tin lành mất thôi. Dứt khoát không thể được. Xin Chúa hãy mau sửa lại câu chuyện này, kẻo nhân loại hư hết, hỏng hết mà thôi.

Dù trời đất có qua đi, nhưng lời của Chúa sẽ không hề thay đổi (x.Mt 5,18). Có thể chúng ta đã lầm. Chuyện kể của Chúa Giêsu sở dĩ có ra là vì nhiều người biệt phái và luật sĩ năm xưa đã thấy khó chịu, khi nhiều người thu thuế và tội lỗi năng lui tới với Người. Họ đã lẩm bẩm, xầm xì trong ganh tị và cả tức tối. Vì họ không chấp nhận những người ấy là huynh đệ của mình. Chính Chúa Giêsu đã từng minh định rằng Người đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là người tội lỗi. Thầy thuốc không cần cho người mạnh khỏe mà là tội nhân. Như thế chuyện Chúa Giêsu kể không cố ý nhấn mạnh đến người con thứ bỏ nhà ra đi, nhưng là người con cả đang ở trong nhà. Chính khi anh ta loại bỏ người em là lúc anh ta tự loại mình ra khỏi tình cha.

Tình Chúa mãi luôn bao la. Người muốn tất cả mọi người đều được hưởng ân tình của Người. Tình yêu thì không cần hội đủ điều kiện. Dù chỉ một cơ hội nhỏ nhoi thôi cũng đủ để cho tình yêu lên ngôi. Tình Chúa vượt quá mọi tình cha thế trần. Người chính là nguồn của mọi tình phụ tử. Là người cha thì lắm khi không cần con cái trực tiếp báo hiếu hay đáp đền công đức. Chỉ cần chúng nó yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong nghĩa tình huynh đệ. Thế là đã đủ.

Đọc Tin mừng chúng ta sẽ càng xác tín chân lý này. Chúa sẽ xử với chúng ta không theo những gì chúng ta đã làm cho Người mà theo những gì chúng ta đã làm cho nhau. Không xét đoán tha nhân thì Chúa sẽ không xét đoán chúng ta. Nếu ta tha thứ cho tha nhân thì Chúa sẽ thứ tha cho chúng ta. Khi ta làm một điều thiện bé nhỏ cho một trong những người bé mọn thì Thiên Chúa không chỉ lấy đấu đã dằn, đã lắc mà đong đổ sự thiện hảo cho chúng ta mà Người còn tặng ban hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta (x.Lc 6,36-38; Mt 25,31-46)

Lạy Cha chúng con ở trên trời… Xin Cha tha nợ cho chúng con… (Mt 6,9-13) Chưa xin thì Chúa cũng đã ban ơn tha thứ, vì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Chưa xin thì Chúa cũng đã nhận chúng ta làm con, vì Người đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một…(Ga 3,16)

Chúa yêu thương, ban ơn tha thứ cho loài người chúng ta thật quá dễ dàng và nhiều khi ta lầm tưởng như là quá hoang phí. Quả đúng vậy. Dường như là một quy luật: Đã thương thì không hề tiếc, đã yêu thì chẳng bao giờ tính toán, so đo. Tuy nhiên để nhận được tình yêu, thì cần phải có điều kiện nào đó. Và cái điều kiện không thể thiếu để có thể đón nhận tình yêu của Cha trên trời, đó là chúng ta phải đón nhận nhau là anh chị em. Điều kiện nay xem ra không dễ. Nếu một ai đó, một người bé mọn hay một kẻ gian ác không có tí chỗ nào trong trái tim chúng ta, thì khi ấy mới thực sự là hỏng hết, hỏng hết.

Để có thể đặt những người không dễ thương mà lại còn đáng ghét vào một chỗ nhỏ trong trái tim chúng ta thì Thánh Lễ, các bí tích, việc cầu nguyện… luôn cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm được sự gì (x. Ga 15,5).

 

81. Tình Cha hậu hỉ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn tin mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về “người con hoang đàng” là đỉnh cao của chữ tình. Người ta còn nói rằng nếu chọn một chương tiêu biểu trong tin mừng thánh sử Luca thì chương 15 phải được ưu tiên. Và trong chương ấy nếu chọn một vài câu thì bài trích Tin Mừng trong Chúa Nhật IV mùa Chay C đáng phải được chọn làm tiêu biểu.

Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ “người con hoang đàng” hay “đứa con phung phá” không thể lột tả hết. Hẳn nhiên điều này được minh chứng qua động cơ trở về của anh ta là chỉ muốn được no cái bụng. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành “người cha nhân hậu”. Theo thiển ý cái tựa đề này diễn tả nội dung câu chuyện khá hoàn hảo. Tuy nhiên xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là “tình cha hậu hỉ”.

Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao. Đã khuất trước một đứa con thì sẵn sàng khuất bóng trước cả đứa còn lại. Nước từ trên chảy xuống. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại. Đã có đó nhiều người cha, người mẹ thanh thản nhắm mắt lìa đời khi thấy con cái đã thành gia thất.

Dù khuất bóng nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Lá rụng về cội là điều thường có. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…” Chẳng biết anh ta có chút tình nào với người cha già, nhưng sự vị kỷ là có đó: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.

Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm, những nụ hôn yêu thương đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết!

Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Tình người cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.

“Con ta đây đã chết mà nay sống lại.” Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: “Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người”. Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào. (x.Ga 3,16). Vậy ta có thể nói rằng Thiên Chúa không thể bỏ con người, không thể bỏ bất cứ một ai, nếu Người thực sự là Thiên Chúa.

Thánh sử Luca cho chúng ta hay chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.

Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. “Còn thằng con của cha kia…”. Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn bẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống.

Tình Chúa thật bao la hay tình cha luôn hậu hỉ. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: “Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi”, thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không ai hưởng hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.

 

82. Trong đôi mắt cha – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?

Bà mẹ đáp:

– Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?

Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:

– Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?

***

Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở” (Tv 17,8).

Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.

Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.

Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31).

Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).

Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.

Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.

Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.

Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.

Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.

Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.

Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.

***

Lạy Chúa, tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen.

 

83. Hãy nhanh khi nghe – chậm khi nói

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Người Việt Nam thường có câu: hãy “nhanh khi nghe – chậm khi nói”. Nghe để đấy, nghe để biết chuyện, suy nghĩ bàn hỏi mới là người khôn ngoan. Còn kẻ dại khờ thì dễ tin, dễ bị khích động và dễ kết án hùa theo đám đông.

Có rất nhiều trường hợp thương tâm đã xảy ra chỉ vì nhanh nghe, nhanh nói, dễ tin vào lời người khác để hành động điên cuồng gây nên những đau khổ do hiểu lầm, nhẹ dạ mang lại. Có rất nhiều lần chính chúng ta cũng vì quá tin người mà hành động thiếu suy nghĩ khi ném đá anh em. Cũng có rất nhiều lần chính chúng ta cũng khổ sở, chẳng biết phân bua thế nào vì bị người khác hiểu lầm, dựng chuyện làm hại chúng ta.

Có một câu chuyện thương tâm kể rằng:

Tạnh mưa, bọn trẻ bưng cơm đứng ăn trước cửa. Tý khoe:

– Nhà Tý ăn thịt gà.

Đêm đó, bà Tám chửi:

– Mả cha nó, nghèo mạt kiếp tiền đâu ăn gà, nó ăn gà bà, nó chết bất đắc cho mà xem.

Ông giáo buồn lắm, ngã bệnh, qua đời. Thương tình, hàng xóm lo ma chay.

Tý hớn hở vì nhà nó đông vui.

Trời đổ mưa.

Thằng Tý la lớn:

– Con gà vô nhà, dậy bắt làm thịt ba ơi.

Mọi người nhìn theo. Thì ra, một con cóc dưới kẹt tủ đang giương mắt nhìn lên quan tài ông giáo.

Hóa ra, nhà ông giáo ăn thịt cóc nhưng lại nói thịt gà để cho con trẻ khỏi thèm thịt gà! Thật là oan gia. Chỉ vì một lời kết án vu vơ đã làm mất đi một mạng người thật là đáng tiếc!

Thế nên, ở đời đừng vội kết tội cho người khác. Hãy bao dung độ lượng và tha thứ. Có những chuyện thấy vậy mà không phải vậy, nên cần cẩn trọng lời nói. Có những sự thật cũng cần được cảm thông hơn là kết án, vì có khi chính chúng ta cũng trải qua những lần lầm lỗi như thế.

Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ của Chúa Giêsu thật từ tâm. Ngài không hùa theo đám đông để kết án người đàn bà tội lỗi. Dù rằng tội người này theo lời của người Do Thái là “rõ mười mươi”. Dù rằng là tội quả tang nhưng cũng cần cảm thông và tha thứ. Ngài đã đi bước trước trong sự tha thứ khi Ngài nói: “Tôi không kết án chị đâu”. Ngài cũng nhắc nhở những người chung quanh đừng dễ dàng kết án người khác, đừng dễ dàng chửi bởi anh em, bởi vì: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”. Ngài còn tạo cơ hội cho người phụ nữ chuộc lại lỗi lầm: “Chị hãy về và từ này đừng phạm tội nữa”.

Đức Giêsu là Thiên Chúa rất thánh thiện vô cùng. Ngài không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi. Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta.

Ở đời: “Ai nên khôn mà không dại một lần”, thế nên, làm người cần có sự khiêm nhu để nhìn lại mình và để cảm thông với anh em. Có thể ta dễ dàng kết án người khác. Có thể chúng ta không muốn gương xấu trong môi trường chúng ta. Nhưng liệu chúng ta làm ầm ĩ lên, hoặc mạnh tay ném đá kẻ có tội chúng ta sẽ được gì khi mất anh em , mất bạn bè vì sự nóng giận của chúng ta?

Mùa chay là mùa giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình để sám hối và cũng để cảm thông với lỗi lầm của anh em. Đừng kết án anh em. Đừng đẩy anh em vào đường cùng. Đừng lên án xử anh em, nhưng hãy bao dung và tha thứ cho nhau. Hãy nhớ lời Chúa dạy: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”.

Xin cho chúng ta học nơi Chúa bài học của bao dung và tha thứ để chúng ta luôn lấy lòng từ bi, nhân hậu mà đối xử với nhau. Xin cho chúng ta cũng nhận ra mình là con nợ đã từng được Chúa tha thứ để đừng bao giờ hà khắc, kết án anh em. Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa luôn “chậm bất bình và rất mực khoan nhân” để đối xử với nhau trong bác ái yêu thương. Amen.

 

84. Thành tâm xét mình – Lm Nguyễn Nguyên

Suốt đời vô tội, cứ lẽ thường, thì không thể. Kinh nghiệm bản thân mỗi người đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy.

Đã là người thì ai cũng có những xu hướng xấu, chỉ có điều khác lọai, và khác mức độ mà thôi, chẳng hạn có người ham thú xác thịt, người khác tham lam của cải, hoặc ích kỷ nhỏ nhen, ghen tương đố kỵ, nói hành nói xấu… Với ý thức đó, lẽ ra nó phải dẫn con người tới sự khiêm nhường và thông cảm với những tật xấu nơi người khác, thế nhưng rất nhiều khi con người lại muốn mình trở nên quan tòa để luận tội, kết án anh em mình. Những kinh sư và người Phariseu trong tin mừng chúng ta vừa nghe là một bằng chứng điển hình cho ta thấy rõ điều đó.

Những kinh sư và biệt phái họ luôn tự cho mình là những tín đồ mộ đạo, họ tự đặt mình trên tòa cao, tự ban cho mình quyền kết án và loại trừ những người mà họ cho là tội lỗi. Hôm nay, họ xúm nhau kết án chị phụ nữ ngoại tình. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Thế nhưng, số phận của chị ta thật may mắn bởi vì: Chị đã được chính Chúa Giêsu, vị quan án kiêm luật sư, một vị cực kỳ khôn ngoan và nhân ái bào chữa và cứu chị thoát khỏi cái án tử đang treo lơ lửng trên đầu: “Tôi không kết án chị đâu – Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Một câu nói mở ra con đường sống cho kẻ bị kết án. Các biệt phái và kinh sư muốn Chúa làm quan toà giết chết, nhưng Ngài lại là vị quan toà cứu sống. Chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo, mời Chúa xét xử người phụ nữ, không ngờ Ngài lại xét xử họ. Người ta đợi chờ Chúa kết án người phụ nữ, không ngờ Ngài lại kết án họ. Người ta mang đá ném vào người phụ nữ đáng thương, không ngờ Chúa lại ném đá vào chính lương tâm của họ.

Nhìn lại và đối chiếu hai thái độ: một bên là Chúa Giêsu, bên kia là những kẻ lên án người khác, mỗi người chúng ta thấy gì? Chúng ta có nhận ra một mâu thuẫn lớn, lớn lắm, lớn vô cùng hay không, đó là: Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa là Đấng vô tội, và Chúa Giêsu chẳng biết phạm tội là gì, lại tha thứ một cách quá dễ dàng. Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án tội nhân, thì Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa lại tha thứ một cách quá nhanh chóng, tha thứ vô điều kiện. Còn con người với nhau, đầy khiếm khuyết, vô vàn lỗi lầm, cũng chẳng bao giờ được quyền xét đoán ai, chẳng bao giờ được quyền kết án ai, lại cứ tìm cái xấu của người khác để mà kết án, trị tội nhau. Cuộc sống hôm nay vẫn có đó những viên đá ác nghiệt, những viên đá của vô tâm, hững hờ, của nghi ngờ ganh ghét, những viên đá ném vào người anh em từ những tâm hồn hẹp hòi, u ám, những con tim chai lì của ác độc tự kiêu. Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội.

Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Đang ngoại tình mà cứ tưởng mình trong sạch cứ kết án người khác.

Thật vậy, tội ngoại tình đa dạng và nhiều kiểu lắm chứ không phải đơn thuần chỉ là chuyện ăn nằm với người khác mà thôi đâu. Khi người ta bỏ Chúa đi thờ ngẫu tượng và các thần xa lạ khác thì lúc đó người ta đang phạm tội ngoại tình đấy. Khi đi cầu cơ, đi coi bói, chơi bùa, chơi ngải, cúng vái các tượng thần để xin chữa bịnh, xin cho làm ăn phát tài …

Khi cúi gập mình xuống để tôn thờ thần sex, làm nô lệ cho thần khoái lạc, suốt ngày chỉ tôn thờ những thú vui trụy lạc, lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Rồi tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái theo kiểu “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em cũng chẳng hề hối tiếc”.

Khi quỳ xuống bái lạy Thần Tài, và cắm đầu cắm cổ làm nô lệ cho nó, bỏ cả nhà thờ nhà thánh, bỏ lễ, bỏ đọc kinh và bỏ luôn không lãnh nhận các phép bí tích …

Khi đã chịu phép Rửa Tội đàng hoàng nhưng lại đi chùa, đi thắp hương, đi cúng vái ông này bà nọ…… Là khi ấy, con người đang phạm tội ngoại tình, đang ngấp nghé bỏ nhà để đi… kiếm bò lạc đấy.

Ước gì, qua lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra rằng: Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân, nên hãy đứng trước tấm gương của lương tâm mình để nhìn thấy cái lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi xấu xa của mình. Hãy cầm lấy viên đá không phải để ném người khác, mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu và ăn năn sám hối rồi hãy bỏ nó xuống đất. Và theo gương Chúa mà đối xử với nhau: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong tuần cuối cùng của Mùa Chay này. Amen.

 

85. Ai là người vô tội? – Lm Trịnh Ngọc Danh

Hôm ấy, vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Ngài. Ngài ngồi giảng dạy họ.

Từ đàng xa, một đám đông đang hớn hở như bắt được một tin vui. Đám đông xô đẩy, lôi kéo một phụ nữ quần áo xốc xếch, tóc rối bù, mặt mày tái mét. Có tiếng quát tháo: “ Đi, đi tới đây! Đồ nhơ nhớp!”

Lại cũng những người kinh sư và Pharisiêu! Chuyện gì nữa đây?

Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “ Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật ông Môi sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy , Thầy nghĩ sao?”.

Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.

Một câu chuyện xưa kể rằng: Một người bị bắt vì tội ăn trộm. Anh bị giải đến trước mặt vua. Nhà vua ra lệnh treo cổ phạm nhân. Trên đường đi đến giá treo cổ, phạm nhân tiết lộ cho viên cai ngục:

– Tôi có một điều bí mật do cha tôi truyền lại, nhưng rất tiếc tôi phải chết, nên đành phải chôn vuì bí mật ấy theo cái chết của tôi.

Viên cai ngục tò mò:

– Bí mật gì, nói mau!

Tên trộm lưỡng lự một lúc rồi nói:

– Tôi có bí quyết có thể gieo một hạt lựu, và làm cho nó mọc lên và trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.

Nghe lạ, viên cai ngục áp giải phạm nhân trở lại với vua. Vua ra lệnh cho anh làm thử. Anh đào một lỗ nhỏ dưới đất, cầm hạt lựu lên và nói:

– Thưa bệ hạ, để thực hiện được bí quyết này, hạt giống này phải do tay một người chưa bao giờ lấy cắp của ai bất cứ thứ gì không phải của mình. Tôi đây là một tên trộm nên không thể trồng nó được.

Vua quay sang một viên quan rồi bảo:

– Ngài có thể gieo hạt giống này chứ?

Viên quan nọ từ chối:

– Khi còn trẻ, tôi có giữ một vài thứ không phải của tôi.

Anh ăn rộm quay sang người giữ kho của triều đình và bảo:

– Vậy ngài có thể trồng được không?

Người giữ kho cũng từ chối:

– Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Hiện giờ tôi cũng đã giữ một ít tiền cho bản thân tôi.

Cuối cùng chỉ còn lại nhà vua, tên trộm quay sang vua và tâu:

– Có lẽ bệ hạ trồng được hạt giống này!

Nhưng nhà vua vội nói:

– Ta xấu hổ mà phải nói rằng có một lần ta đã lấy chiếc đồng hồ của cha ta.

Tên trộm kết luận:

– Tất cả các ngài đều là những người sang giàu, có uyền lực, và không còn thiếu gì nữa. Thế mà chẳng ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này; trong khi đó, tôi chỉ vì đói mà ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, một túi gạo mà lại bị kết án treo cổ.

Và nhà vua đã tha chết cho anh.

Đó là câu chuyện của thế gian. Trở lại câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình:

Người phụ nữ ấy đang đứng trước mặt Chúa Giêsu. Những kinh sư và người Pharisiêu phấn kích như tìm được một chiến lợi phẩm, vừa tỏ ra mình có công trạng vừa thầm gài bẩy Ngài xem Ngài đối xử thế nào để có bằng cứ tố cáo Ngài. Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Họ thầm nghĩ: Phen này thì ông ta bí rồi, và họ cứ thế hỏi mãi, nên Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ nhìn nhau, rồi bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi.

Mục đích của các kinh sư và người Pharisiêu là gài bẩy Chúa Giêsu: Ném đá hay không ném đá? Nếu Ngài bảo đừng ném đá, thì họ sẽ kết án Ngài là người khuyến khích người ta chống lại luật Môisê; nếu Ngài bảo hãy ném đá, thì họ sẽ quy kết cho Ngài là người không nhân hậu. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời liền cho họ, nhưng để cho họ có thời gian tự vấn lương tâm để nhìn vào chính bản thân mình đã đáng lên án, kết tội người khác chưa.

Sự thinh lặng thức tỉnh lòng người: Chúa Giêsu thinh lặng, phớt lờ những lời tố giác của họ có lẽ cũng vì Ngài muốn cho họ biết rằng: Không ai là người không có sai phạm. Ai cũng là những người có tội, có ai trong sạch hơn ai đâu, bêu xấu, kết án người khác để làm gì, có ích lợi gì đâu? Và qua đó, Ngài cũng tỏ thái độ chán ghét bọn giả hình cho mình là người đạo đức thánh thiện. Thái độ phớt lờ chuyện người phụ nữ phạm tội là cách thức Ngài đánh động lương tri của con người. Ngài chẳng buồn trả lời; nhưng hỏi mãi, Ngài đành phải lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Đó là một câu nói thức tỉnh lương tri những người giả dối, đạo đức giả.

Nghe nói thế, họ chột dạ và lẳng lặng rút lui, trước tiên là những người lớn tuổi. Và có lẽ, trên đường rút lui, có những người đã xầm xì với nhau: Ngoại tình! sao không bắt cả hai mà chỉ buộc tội có một mình người phụ nữ kia nhỉ?

Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ nữ. Ngài ngẩng nhìn lên và hỏi: “ Này chị, họ đâu cả rồi? Họ không lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “ Thưa ông, không có ai cả”. Chúa Giêsu nói với chị ta: “ Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

Ít ra trong đám người Pharisiêu, luật sĩ hôm ấy và ngay cả chúng ta hôm nay còn có chút lương tri đã không giả hình vô tội để ném đá người phụ nữ kia, và đã có cơ hội để nhìn lại chính bản thân mình: Không ai là người vô tội. Người lên án cũng chẳng phải là người tốt. Nếu phải ném đá, thì mọi người đều phải chung số phận!

Lên án người khác, nhìn thấy lỗi lầm của người khác thì dễ hơn là lên án và nhìn ra lỗi lầm của chính mình. Người đáng phê phán và kết án lại là người tự cho mình là công chính. Không ai là công chính và cũng không ai là vô tội. Sám hối và tin vào Tin Mừng là con đường dẫn chúng ta đến lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là con đường chúng ta phải nổ lực vươn tới như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philliphê đã xác nhận: “ Không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề Luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô…Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang theo đuổi để chiếm lấy…” (Phil. 3: 13-14)

Thiên Tình yêu của Thiên Chúa không phân biệt đối xử. Tình yêu của Thiên Chúa muốn cứu vớt hết mọi người.

Thiên Chúa lên án tội lỗi, nhưng Ngài không kết án tội nhân. Bản thân tội lỗi không cần lòng thương xót, nhưng bản thân tội nhân thì cần. Điều Thiên Chúa cần là lòng sám hối, ăn năn và hoà giải với Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.

Chúa Giêsu xuống trần gian để giao hoà những người chưa giao hoà với Thiên Chúa; thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô đã viết:“ Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hòa với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2 Cor. 5: 19).

Lòng thương xót của Thiên Chúa không chấp tội chúng ta, không lên án quá khứ lỗi lầm của chúng ta. Qua Đức Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ mở đường trong hoang địa, sẽ khơi dòng sông nơi vùng đất khô cằn như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: “ Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa và khơi sông nơi đất khô…(Is. 43: 18-19)

Lời nói âu yếm dịu dàng của Chúa Giêsu với người phụ nữ cũng là lời nói âu yếm ngọt ngào đối với tất cả chúng ta là những tội nhân: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

home Mục lục Lưu trữ