Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1378522

TRỞ VỀ TRONG TÌNH YÊU

Trở về trong tình yêu

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không có ngôn từ nào có thể diễn tả. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương từng con người như thể trên đời chỉ có duy nhất một người vậy. Tình yêu ấy thể hiện cách rõ nhất khi người lỗi phạm thì Ngài luôn sẵn sàng thứ tha. Đứa con lánh xa thì Ngài luôn trông ngóng nó quay về. Dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay đã khắc hoạ hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

Nhìn vào sự hư hỏng, phóng đãng của những đứa con thứ trong dụ ngôn, hình ảnh người cha nhân hậu càng đáng làm ta nể phục. Với tuổi trẻ ham chơi, người con thứ sớm muốn được sở hữu một tài sản cho riêng mình. Nó đã tự ý đề nghị người cha chia gia tài cho nó. Theo tập tục dân Israel , người cha không được chia gia tài theo ý thích của mình nhưng luật có những quy định rõ ràng. Người trưởng nam được hưởng 2 phần sản nghiệp, nghĩa là gấp đôi phần được chia cho những người con khác. Ơ đây chỉ có 2 người con nên người anh cả được hưởng 2/3 còn người con thứ là 1/3.

Việc người cha chia gia tài khi ông còn sống không có gì lạ, bởi người cha có thể chia gia tài cho các con khi ông không muốn hoạt động kinh doanh nữa. Tuy nhiên taì sản các con chỉ được hưởng khi người cha qua đời. Điều đáng nói ở đây là chính đứa con thứ đã lên tiếng đề nghị trước. Lời anh đề nghị với cha có ý nói rằng: Cha hãy cho tôi gia tài ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được hưởng. Tin Mừng không nói người cha trả lời ra sao thì đứa con thứ đã tự lấy phần của mình rồi ra đi. Người cha không nói tiếng nào, chỉ biết bằng lòng trong đau khổ vì biết răng con mình rồi sẽ hư thân.

Thế nhưng trong dụ ngôn, Thiên Chúa vẫn luôn đặt hy vọng nơi con người tội lỗi. Một lời khen tặng duy nhất và lớn nhất của Chúa Giêsu dành cho đứa con thứ khi Ngài nói: ” Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhũ: Thôi ta đứng lên đi về cùng cha tôi “. Đây là sự tỉnh ngộ của một người khi biết trở về với chính mình. Điều này rất quan trọng, vì chính sự trở về này mà số phận người tội lỗi được thay đổi. Con người còn chống nghịch Thiên Chúa thì con người không thực sự là chính mình. Con người thật sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà Cha.

Một điều hết sức lạ kỳ nơi Chúa Giêsu và cũng là sự an ủi cho chúng ta là Thiên Chúa không bao giờ nghĩ rằng con người là hư hỏng hoàn toàn. Ngài luôn đặt tin tưởng nơi con người một sự trở về. Đó cũng là tâm trạng của người Cha trong dụ ngôn. Ngày ngày người cha cứ đứng chờ đứa con nơi đầu ngõ. Chờ để đón nhận, chờ để tha thứ cho con. Sự tha thứ của người cha này không một điều kiện, không một lời trách móc, ngăm đe.

Người con thứ trở về là niềm vui lớn cho người cha. Dù Kinh thánh không đề cập đến nỗi đau của người cha, song chúng ta hiểu ông ây rất đau khổ lắm. Kinh thánh cũng không nói thời gian đứa con xa nhà là bao lâu, nhưng ta hiểu người cha phải nhiều phút giây trăn trở lo lắng cho người con. Khi con trở về niềm vui đã khoả lấp mọi đau buồn, chỉ biết chạy ra ôm chầm lấy con.

Người con cả, bao năm sống trong nhà cha mà anh sống như người ở ngoài vậy. Anh là đứa con cứng nhắc và hẹp hòi. Anh đã nổi giận với cha, không chịu ăn mừng khi người em trở về sau những ngày phóng đảng. Thế mới hiểu ra, trước giờ anh hầu hạ cha không mang tâm tình của người con nhưng mang tâm tình của người giúp việc mong được trả lương. Cách ” hầu hạ ” cha như thế anh đã đánh mất diễm phúc đích thực là hằng ngày được sống bên cạnh cha và được thừa hưởng tất cả những gì là của cha. Anh chỉ biết vâng nghe người cha làm việc trong bổn phận mà quên đi điều mình phải làm tất cả trong yêu thương. Anh đã sống gần cha mà không nhận ra tình thương của cha. Thiết nghĩ anh là đứa con tuy không đi xa nhưng cần phải trở về.

Đời sống của mỗi người có lẽ nhiều lần đã bỏ Chuá quá xa đến nỗi không còn biết đâu là lối để quay về. Những lún chìm quá nặng nề trong tội lỗi, những nghi ngờ trước tình Chúa yêu thương khiến ta không dám quay bước trở về. Ta nên vững tin rằng, Thiên Chúa ngày ngày luôn đợi chờ ta và sẵn sàng đón nhận, ăn mừng khi ta biết quay trở về.

 

65. Người anh cả

Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm cho chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám chỉ đến ai đây? Đồng thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta hôm nay?

Khi được biết người em trở về và cha anh đã giết bê béo ăn mừng anh liền nổi giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung vui với ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”.

Trước hết, người anh cả nói về bản thân mình, anh chứng tỏ lòng trung thành đối với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề trái lệnh, không ăn chơi, không bỏ nhà đi hoang. Nhưng những lời anh dùng kể công với cha là những lời đầy ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Người cha bao dung đến độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui mừng khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ rõ khoảng cách giữa anh đối với cha và người em. Anh đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người cha. Anh thiếu tâm tình của một người con và một người anh: từ chối em mình và không muốn chia sẻ niềm vui của cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi vật chất trọng hơn tình nghĩa? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được tình cha, không biết sống như một người con. Anh chỉ biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so đo tính toán. Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải được trả công, biến mình thành nô lệ đối với ông chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn tương quan huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với mình. Một cái nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn người cha như một ông chủ bất công. Anh trở thành người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông trong gia đình đã biến mất.

Đã đành người con thứ khước từ tổ ấm gia đình ra đi tìm hạnh phúc nơi vùng đất lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở nhà cũng ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi chuyện mà một người con tốt phải làm, nhưng bên trong anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng của người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung thành vâng phục, làm việc khổ nhọc, mọi người xem anh như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về và được cha vui mừng đón tiếp thì con người thật của anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo, ích kỷ, ganh ghét… Những điều mà lâu nay được che đậy.

Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhưng điểm nhắm của Ngài là người con cả, hiện thân của những người Biệt phái và Luật sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái độ của Ngài đối với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn uống với họ. Điều này đã làm cho những người Biệt phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên tri như Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội lỗi như vậy là điều không thể chấp nhận được. Đối với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại luật lệ Do thái.

Những người Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, tuân giữ tỉ mỉ, nghiêm ngặt lề luật của Thiên Chúa, như vậy họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế là những nhân viên làm việc cho đế quốc Rôma, làm tay sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét. Còn những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ không muốn liên hệ vì sợ dơ bẩn ô uế.

Vì mang hình thức vụ luật nghĩa là giữ luật vì luật, với tinh thần cứng nhắc và giả hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha nhân là anh em mình. Ngược lại với thái độ kỳ thị phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi, rộng tay đón tiếp và đồng bàn với họ. Ngài mời gọi họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực, Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi, những người bị xã hội Do thái đương thời loại ra khước từ.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả lời cho những người Biệt phái và Luật sĩ thấy rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời mời gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một tâm hồn quảng đại bao dung như Thiên Chúa trong việc tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại.

Quả thực, dụ ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật sĩ nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô hữu chúng ta. Dụ ngôn nhắc người Kitô hữu nhớ rằng: người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh chị em, cho dù những người này là tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể xưng mình là môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những người đang gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?

Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu, nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những người ngay chính nên ta dễ dàng phê bình, chỉ trích, khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là những người mang những lỗi lầm công khai như: những người mắc bệnh Sida, nghiện ngập ma tuý, rượu chè, trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước… Vì thế để hoá giải và sửa chữa những thành kiến, những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần có cái nhìn cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.

Dụ ngôn người con hoang đàng làm nổi bật trái tim của người cha: một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Nhưng đồng thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của những người Kitô hữu chúng ta.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta dù là con thứ hay con cả cũng cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để thực sự là con của cha. Trở về với cha là dang rộng tay đón lấy người em lầm lỡ. Không còn là thằng con của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia sẻ niềm vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương anh em một nhà.

Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, khi ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén, chúng ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương của những người anh em một cha trên trời.

 

66. Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân từ

Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức Giêsu, người ta biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và vô cùng nhân từ.

Thiên Chúa đã đưa dân vào đất hứa

Thiên Chúa đã đưa dân Do Thái khỏi Ai-cập, nuôi họ bằng manna, dẫn họ vào đất Ngài đã hứa với cha ông họ. So sánh dân Do Thái và các dân tộc khác, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa rất ưu đãi dân riêng của Ngài.

Tại sao Ngài lại ưu đãi dân Do Thái mà đánh phạt dân Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại giết các con đầu lòng của người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại để những con trai của người Do Thái bị thả trôi sông chết khi Ngài nói Ngài yêu thương họ? Tại sao Thiên Chúa mới nhập thể đã gây cớ để những hài nhi ở Bêlem bị Hêrôđê giết? Hành vi đánh phạt dân Ai-cập, cũng nhằm để dân Ai-cập biết về Thiên Chúa hơn. Những người bị tru diệt nơi biển đỏ, bởi tội ngoan cố của Pharaô không chịu để dân Do Thái ra đi khi Thiên Chúa đã dùng Môsê và Aaron bày tỏ quyền năng và ý muốn của Thiên Chúa. Các hài nhi ở Bêlem được vinh dự làm chứng cho Ngôi Lời nhập thể. Tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang can thiệp trong dòng lịch sử.

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả người trong cuộc “bị nạn”. Nếu biết nhìn, người ta có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh.

Con người mới trong Đức Kitô

Thiên Chúa đã làm mới tất cả nhờ Đức Giêsu, Con của Ngài. Thiên Chúa làm mới con người liên tục, đặc biệt qua hành vi tha thứ và ban ơn thánh hoá cho con người, khi tội nhân trở lại với Ngài.

Ơn thánh hoá, làm con người giao hoà với Thiên Chúa, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa, cũng ảnh hưởng trên cả thân xác người, khiến con người có cái nhìn và hành xử độ lượng như Thiên Chúa.

Thiên Chúa như người cha nhân từ

Người con thứ có tội với Cha và với anh mình, vì đã phung phí tài sản do công lao khó nhọc của người Cha. Người con thứ cũng đã xúc phạm Cha mình khi coi việc ở bên Cha là bất hạnh. Việc ra đi gây buồn phiền đau khổ cho người Cha. Tội của người con trưởng nặng không kém, vì đã từ khước không muốn nhận em mình khi người em thống hối trở về. Có lẽ người con trưởng đã coi tiền của trọng hơn em mình. Người con trưởng ở lại bên Cha, chưa chắc đã vì yêu Cha cho bằng sợ một cái gì đó mà không dám ra đi. Người con trưởng sống bên người Cha, mà không có thái độ của một người con nhưng của một người làm công.

Thiên Chúa như người Cha nhân từ, luôn tựa cửa chờ con người trở lại với Ngài. Ngài cũng đối xử với con người, như người Cha năn nỉ người con trưởng hãy chấp nhận em mình, và xin người con trưởng hãy sống trong tâm tình của người con “những gì của Cha đều là của con”.

Thái độ của người con thứ và con trưởng cũng như hình ảnh của người cha trong dụ ngôn, giúp con người hiểu biết về chính mình và về Thiên Chúa hơn.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Lời Chúa hôm nay cho bạn thấy Thiên Chúa là ai?
  2. Nếu Ngôi Lời Thiên Chúa không nhập thể, theo bạn, con người hiểu Thiên Chúa là ai? (Các tôn giáo khác hiểu gì về Thiên Chúa?)
  3. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại tôn trọng tự do con người đến độ như vậy? (Con người có thể không vâng phục, chống lại Thiên Chúa).
  4. Những người bị tai nạn nguyền rủa Thiên Chúa, theo bạn, họ có đáng trách không? Tại sao?

 

67. Sám hối là trở về – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu thường quan tâm, chăm sóc, gần gũi những người tội lỗi. Nhóm Pharisiêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi lẽ những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa, người tội lỗi là người cần được yêu thương nâng đỡ hơn. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời những thắc mắc của họ.

Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người cha nhân hậu, trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người phụ nữ. Một người con quá quý giá đối với người cha nhân từ. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với Thiên Chúa.

Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Thiên Chúa rất đỗi vui mừng.

Tin Mừng hôm nay kể về dụ ngôn thứ ba: “Người cha nhân hậu”. Nội dung câu chuyện đều hướng đến tình cha “ấm áp như vầng thái dương”, cao vời vợi và thật xúc động ân tình của cha.

Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.

Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.

  1. Người con thứ, biểu tượng người tội lỗi

Người con thứ đòi cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình. Rời quê nhà, nơi sinh trưởng, nơi nó được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.

Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo. Nó ra đi không phải để học hành, tìm kiếm việc làm. Nó đi ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản và sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Nó trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.

Khi trở về nó chẳng còn gì cả, tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.

Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến cha, không bao giờ sám hối vì bỏ cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha là nó “trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công”.

Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.

Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin. Nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp. Nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy, chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho cha để có cơm ăn áo mặc.

Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.

Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.

Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, nhiều khi ban Bí tích Hòa giải, tôi đã gặp nhiều hối nhân, sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa để tìm lại bình an nội tâm, đón nhận niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều hối nhân như thế, tôi cảm thông với người con thứ.

  1. Người con cả, biểu tượng người biệt phái

Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha.

Hoá ra, cả hai người con vừa khác, lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.

Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, người anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.

Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẻ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.

Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với anh em.

  1. Người cha, hình ảnh Thiên Chúa

Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!

Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.

Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.

Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.

Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.

Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.

Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.

 

68. Hoan nghênh!

Bài Phúc Âm hôm nay nói về dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu đã hoan nghênh sự trở về của cậu. Một người cha có hai người con. Người con trẻ hơn, đã không thể kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi cha mình qua đi để chia gia tài. Anh nói, “Bố ơi, con muốn nhận phần gia tài của con, và đi khỏi cái vùng quê này.” Người cha đã chia phần sản nghiệp cho con theo lời cậu yêu cầu. Theo lời Phúc Âm kể lại thì người con trẻ đã thu hết tất cả những gì thuộc về mình và trẩy đi nơi xa và ở đó ăn chơi.

Sau cùng, cái ngày tàn khốc đã đến với anh. Anh đã xài hết tiền và trở nên tồi tàn. Anh đã cố gắng để tìm một công việc là chăn heo, và bởi vì đói quá nên đã có lúc anh muốn ăn những đồ của heo. Không một ai giúp đỡ cho anh một cái gì hết. Sau đó, Phúc Âm kể lại cho chúng ta rằng anh đã được đánh động từ trong nội tâm việc anh phải làm. Anh suy nghĩ: “Tôi phải rời bỏ chỗ này, và trở về với cha tôi, và thưa với người rằng con đã phạm tội với trời và với cha. Con không đáng được gọi là con cha nữa.” Và sau đó, anh đã bỏ chốn tồi tàn đó và trở về với cha mình.

Khi anh về gần đến nhà, người cha đã chạy ra và hoan nghênh đón tiếp anh, “Ông chạy đến, ôm chầm lấy và hôn anh” (Lc 15:20).

Chú ý là không có chỗ nào ghi lại là người cha đắn đo, và không một sự hối hận nào ở trong trái tim của người cha, cho dù là người con đã phá tài sản của mình. Người cha đã quyết định không để cho một chút sự nghi ngờ gì về người con ở trong tâm trí của mình, tất cả đều được tha thứ.

Chúa Giêsu đã cô đơn trong bốn mươi ngày chay tịnh ở trong sa mạc trước khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của Ngài. Chúa Giêsu đã cô đơn trong vườn Giếtsimani buổi tối trước khi đi chịu chết. Ngài đã không ngừng van xin, “Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14:36). Chúa Giêsu đã cô đơn khi Ngài đang bị treo trên cây thánh giá, “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:34). Cho dù là đi vào trong một cái chết cô đơn, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ước muốn mạnh mẽ sự hiện diện của Chúa Cha cùng sánh vai cứu chuộc nhân loại.

Ước muốn sánh bước với Chúa có lẽ là điều mà chúng ta ít khi để ở trong thời khoá biểu ngày sống của mình. Ước muốn có sự hiện diện của Thiên Chúa là con đường dẫn đến sự sống, bởi vì sự khao khát đó sẽ giải hoà ta với con người và rồi dẫn chúng ta đến gần Thiên Chúa!

Một vị linh mục có tài năng về âm nhạc chia sẻ về một lần ngài đi viếng viện dưỡng lão như sau. Sau khi chơi đàn guitar và hát cho những người già nghe, ngài đã đến và bắt tay từng người. Một người đàn bà già đã bắt tay ngài và nói với ngài hãy trở lại trong vòng hai tuần lễ vào cũng giờ này. “Tại sao vậy?” vị linh mục hỏi. “Đó là bởi vì hôm đó là birthday thứ 100 của tôi,” bà trả lời. Vị linh mục đó bị cảm kích hỏi lại, “Điều gì đã được ban tặng trong suốt cuộc đời lâu dài của bà?” “À, thì tôi đã cưới được một người chồng tốt, ông ấy đã ra đi, và tôi còn có những người con ngoan thảo, họ cũng đã ra đi. Đó là cuộc sống hạnh phúc mà tôi đã có. Bây giờ tôi có một cuộc sống như thế này.” Sau đó, bà ấy đã mở rộng cánh tay ra như muốn ôm lấy tất cả mọi người. Bây giờ, mỗi khi tôi gặp trắc trở khó khăn, hoặc cô đơn lặng lẽ, tôi đều mở rộng cánh tay và đón nhận những điều mình đang có.”

Cho dù chúng ta có ở trong một chỗ tạm trú cho những người vô gia cư hoặc ở trong viện dưỡng lão, hoặc ở một nơi thờ phượng, hoặc là một dịp gia đình tụ họp, bất kỳ ở chỗ nào, chúng ta cũng hãy mở rộng cánh tay hân hoan nghênh đón những gì mình có và ôm lấy nó. Điều chúng ta phải làm hôm nay không phải là tách xa, nhưng là giải hoà.

Bạn hãy luôn luôn là người tha thứ trước. Đừng chờ đợi để người khác đến xin lỗi bạn. Bởi vì, do sự tha thứ, bạn sẽ trở thành sư phụ của định mệnh, một người trang điểm cho cuộc sống, một người làm phép lạ.

 

69. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Tài

Em con đã chết nay sống lại

Đức Hồng Y Suhart, Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám phủ nhận. Đặc biệt về đường hướng đạo đức thâm sâu mà Ngài đã vạch ra trong các thư luân lưu danh tiếng như: “Giáo hội tiến hay lùi” (Mùa Chay năm 1948); hoặc “Linh Mục giữa xã hội” (Mùa Chay năm 1948).

Đức Thánh Cha Piô XII rất lấy làm cảm phục khi đọc qua các thư luân lưu ấy. Trong dịp Đức Hồng Y đến Vaticano, Đức Thánh Cha đã tươi cười hỏi đùa: “Năm nay Đức Hồng Y có ra thông điệp nào mới không?”

Giữa những bận rộn của giáo phận với mấy triệu giáo dân, 10 Giám mục phụ tá, 1,500 linh mục và hàng trăm ngàn tu sĩ nam nữ, một hôm, một linh mục bí thư trình lên Đức Hồng Y một tập sách mới viết định xuất bản, do một linh mục trẻ trong giáo phận soạn ra. Linh mục ấy thiết tha xin Đức Hồng Y xem qua cuốn sách và chuẩn y trước khi ấn hành. Đức Hồng Y vui vẻ nhận lời: “Tốt lắm! Cha cứ để đấy, lúc nào rỗi tôi sẽ xem”.

Một tháng trôi qua, cuốn sách chẳng được đụng đến, vị linh mục nôn nóng chờ đợi, thời gian dài như cả thế kỷ. Thế nhưng, chẳng biết làm sao hơn, vì Đức Hồng Y quá bận việc. Phải đợi đến một buổi chiều mùa đông giá lạnh, khi Toà Giám Mục hoàn toàn vắng khách, trong bầu khí thân mật, cha bí thư rụt rè trình bày: “Thưa Đức Hồng Y, xin Đức Hồng Y xem qua tập sách cho ông cha trẻ kia được phấn khởi. Ông ta cứ hỏi con hoài à! Có thể hôm nay vắng khách, xin Đức Hồng Y xem qua tí thôi, cũng như đọc sách báo giải trí vậy”. Đúng! Tôi bận quá vậy nên chậm trễ mất, đưa quyển sách cho tôi, tôi bắt đầu đọc ngay bây giờ. Cha bí thư vui mừng phấn khởi, trao ngay cuốn sách và nhẹ nhàng rút lui. Thế rồi Đức Hồng Y mải mê đọc sách, giờ cơm tối Ngài vắng mặt, 12 giờ khuya đèn phòng Ngài vẫn còn bật sáng và 3 giờ sáng vẫn còn đèn. Ngài đã đọc suốt đêm, quên cả ăn lẫn ngủ.

Sáng hôm sau, vừa dùng điểm tâm xong, Đức Hồng Y vội gọi ngay cha bí thư vào và bảo mời các các Giám Mục phụ tá, các Tổng Đại Diện và ban cố vấn đến dự phiên họp đặc biệt. Khi tất cả tề tựu đông đảo, Đức Hồng Y lên tiếng: Lý do của buổi họp mặt đặc biệt hôm nay là vì tập sách của cha Henry Kobel mang tựa đề: “Nước Pháp, một xứ truyền giáo”. Tập sách được cha bí thư trao cho tôi chiều hôm qua và tôi đã đọc hết cuốn sách, quên cả ăn, cả ngủ. Bấy lâu nay tôi cứ ngờ rằng, tôi đã biết rõ thành phố Paris, giáo phận của tôi. Nhưng bây giờ đọc trong đó, tôi thấy có nhiều sự kiện rất mới lạ khiến cho tôi phải bồn chồn thao thức. Tôi tự kiểm điểm lại: Thật tôi chưa biết rõ giáo phận của tôi. Tôi rất cảm phục cuốn sách này. Vì những tư tưởng trong cuốn sách cứ ám ảnh tôi, khiến tôi trằn trọc suốt đêm, mong sao đến sáng để gặp các vị cố vấn và tức khắc đi vào vấn đề.

Cám ơn cha Henry Kobel đã trao sách ấy cho tôi đọc. Và kết quả của công việc kiểm điểm này là Ngài đã lập ra “Hội Truyền Giáo Thừa Sai Paris” vào năm 1944, đồng thời Ngài ra hai bức thư luân lưu nổi tiếng nói trên.

Anh chị em thân mến!

Khởi đầu của cuộc canh tân hay sự trở về bao giờ cũng được đánh dấu bằng những giây phút “Tự Kiểm Điểm” hay “Cảnh Tỉnh”.

Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cũng gợi cho chúng ta sự đổi mới trở về của người con đi hoang sau những giây phút chạnh lòng và tự kiểm điểm. Thật thế, có lẽ trong chúng ta chẳng ai xa lạ gì với hai chữ “Kiểm Điểm”, không những không xa lạ mà lắm khi còn kinh hãi khi nhắc đến hai chữ này. Nhưng dù sao đi nữa “Kiểm Điểm” vẫn luôn là yếu tố căn bản để đổi mới con người. Tu đức học Kitô giáo đã dùng nó như là phương pháp hoàn thiện con người.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” cũng đã khuyên: “Trên đường hy vọng, thỉnh thoảng con phải dừng chân nơi bóng mát để kiểm điểm lại những bước lệch lạc, rút kinh nghiệm để bước tiến, chuẩn bị thêm hành trang. Hãy kiểm điểm mỗi tối, kiểm điểm mỗi tuần, kiểm điểm mỗi lần xưng tội, kiểm điểm mỗi lần tĩnh tâm.

Xe tốt cũng làm máy lại. Sức khoẻ tốt cũng khám tổng quát, nếu muốn tránh sự sụp đổ bất ngờ không thể cứu vớt được. Bay lồng lộng giữa không gian thế nào, sửa tay lái liên lỉ và triệt để nghe lời chỉ bảo từ quả đất, vì lệch lạc là không đến đích.

Con người đã sợ hãi, xa lánh từ “Kiểm Điểm”. Vì mỗi lần tự kiểm điểm là mỗi lần nhận chịu hình phạt. Một dịp tự kiểm điểm là thêm một cơ hội chịu hạ nhục, bêu xấu đánh mất đi phẩm giá con người của mình.

Trong Đức Giêsu Kitô, kiểm điểm không còn mang dáng dấp đe doạ ấy. Người con đi hoang đã thưa cùng cha: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Xin cha đối xử với con như một người làm công của cha mà thôi”. Đáp lại lời tự hối này không phải là lời trách phạt đoạ đầy, nhưng là một việc xác nhận địa vị làm con và một bữa tiệc linh đình với những gì ngon béo nhất để mừng con trở về.

Chúng con cũng có thể gọi “lịch sử cứu độ” là một chuỗi những bản tự kiểm điểm, những lời tự hối được nhận lời và được ban thêm giá trị: Ngôi báu của Đavít tồn tại đến muôn đời; người phụ nữ tội lỗi trở thành rường cột Giáo hội. Tuy nhiên, lời Kinh Thánh, lòng sám hối chỉ có giá trị khi xuất phát từ cặp môi miệng chân thành với tin yêu hy vọng kèm theo một sự chỗi dậy, quyết tâm trở về với hết lòng thành của tâm hồn.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn lại mình, để quyết tâm đứng dậy trở về cùng Cha. Mỗi một thất bại, mỗi một đau khổ vẫn luôn là một tiếng chuông gọi mời, cảnh tỉnh, nếu con biết tự kiểm điểm rút tỉa kinh nghiệm. Chúng sẽ là cơ hội quí báu cho con cảm nghiệm được tình yêu bao la của người Cha trên trời. Amen.

 

70. Dứt khoát – Trầm Thiên Thu

Muốn bỏ một điều gì xấu thì người ta phải can đảm. Có can đảm mới có thể tin tưởng, có tin tưởng mới có thể dứt khoát “đứng dậy” và “trở về”. Người con hoang đàng phải can đảm và dứt khoát để trở về với người cha, chính người cha cũng phải can đảm và dứt khoát mới có thể nhận đứa con hư là người con yêu như trước.

Đức Chúa phán với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập” (Gs 5:9). Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay. Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho dân Ít-ra-en, cả người tốt lẫn người chưa tốt, cũng như mưa xuống cho mọi người mà chẳng phân biệt ai.

Cuộc sống của dân Ít-ra-en giản dị, nhờ hồng ân nhưng vẫn phải hợp tác bằng sức lao động hằng ngày: “Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an” (Gs 5:11-12). Làm việc để biết giá trị của lao động và ý nghĩa của cực khổ. Hưởng dùng những gì do mình làm ra mới biết trân quý sự nỗ lực của bản thân, nếu cứ an nhàn thì người ta dễ ảo tưởng, ỷ lại và kiêu ngạo.

Hồng Ân Chúa luôn tuôn tràn. Cảm nhận được vậy nên tác giả Thánh vịnh xác định: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi” (Tv 34:2). Tại sao? Tác giả Thánh vịnh nói rõ lý do: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa”, thế nên “xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:3).

Không chỉ vậy, người nào cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa không thể thụ động, thế nên tích cực kêu gọi: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:4-6). Tác giả Thánh vịnh khiêm nhường và chân thành tâm sự: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:7).

Thánh Phaolô xác định: “Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:17). Đó là canh tân, là càng ngày càng mới hơn. Nhưng không phải do công sức của chúng ta, mà “mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” (2 Cr 5:18). Thánh nhân giải thích: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2 Cr 5:19-20).

Thánh Phaolô là một học giả, chữ nghĩa đầy mình, nhưng ông không văn hoa bóng bẩy mà lại viết rất rõ ràng và thực tế: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Tình yêu Thiên Chúa quá kỳ lạ, quá cao siêu, chúng ta không thể nào lý giải được, mà chỉ có thể cúi đầu kính tin và cảm tạ!

Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Thấy thế, những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Tình trạng này rất thường thấy trong chúng ta: Xét người hơn xét mình. Đó là một dạng kiêu ngạo được che đậy khá tinh vi dưới nhiều dạng thức, không khác gì người Pharisêu chê trách người thu thuế ngay khi cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Thế nhưng người ta sai mười mươi mà vẫn cho mình là đúng, là “ngon”.

Biết họ đang nghĩ gì, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” – cũng gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (Lc 15:12). Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, không may trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp. Anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15:18-19). Sau khi giằng co trong tư tưởng, anh ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, rồi can đảm đứng lên đi về nhà cha.

Thái độ dứt khoát rất quan trọng. Đó là “chết” cho tội lỗi, “chết” cho chính mình. Đau khổ, thất bại, thua cuộc, lâm bước đường cùng,… là những lúc tiếng Chúa đang nói thẳng với chúng ta. Tài sản cá nhân của chúng ta không là tiền bạc, của cải, vàng bạc,… mà là tính tự phụ, tính ích kỷ, thói kiêu căng, thói lọc lừa,… Và rồi một lúc nào đó, chúng ta cũng “trắng tay” và không dám “đứng thẳng” mà ngước nhìn đời. Bị “triệt buộc”, tiến thoái lưỡng nan, nhưng nếu can đảm dứt khoát với quá khứ thì thật phúc thay, vì Thiên Chúa nhân từ vẫn chan hòa Lòng Thương Xót.

Về đến nhà, biết thân biết phận mình khốn nạn, người con nói: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15:21). Người cha chỉ chờ giây phút đứa con hối cải. Và người cha liền bảo các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:22-24). Và họ bắt đầu ăn mừng. Ôi, Lòng Thương Xót của Chúa quá bao la!

Khi tiệc mừng rôm rả, người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ” (Lc 15:27). Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ, nhưng anh ta so đo: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15:29-30). Chúng ta chỉ là những đứa con bất hiếu, thế nhưng chúng ta vẫn thường so đo và tính toán nhưng người con cả trong dụ ngôn này. Tính kiêu ngạo luôn chờ cơ hội, từ manh nha biến thành manh động chỉ trong tích tắc!

Nhưng người cha vẫn ôn tồn và điềm đạm nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:31-32). Người cha lý luận tuyệt vời quá!

Quả thật, Thiên Chúa đã chấp nhận bỏ 99 người đạo đức để đi tìm chỉ một người lầm đường lạc lối, vì Ngài “không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18:14). Thiên Chúa “ngược đời” quá mà cũng kỳ diệu quá! Nếu Ngài không “khác người” như vậy thì chúng ta hết đường “về nhà”. Và vì thế, chúng ta phải dứt khoát bỏ ngay thói kiêu căng của người con cả!

Lạy Thiên Chúa, chúng con khốn nạn quá, thế mà chúng con vẫn tự cho mình là “chiên ngoan”. Xin Chúa đổi mới chúng con theo đúng Tôn Ý Ngài, xin dập tắt tính kiêu căng nơi chúng con, xin giúp chúng con nhận biết mình lầm lạc để có thể đoạn tuyệt với quá khứ đen tối mà mau quay gót trở về nương náu nơi Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

 

71. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng

Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa

Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại hiện hữu có ghi lại trong Thánh kinh. Trải qua suốt dòng lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Chúa đã lỗi lời giao ước. Họ chối bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Họ đúc bò vàng để thờ. Và mỗi khi họ đi lạc đường lỡ bước thì Chúa lại sai các tiên tri đến để cảnh giác họ. Và mỗi lần họ ăn năn thống hối, thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng tha thứ. Cuối cùng Chúa sai chính Con một Người đến để thi hành luật bác ái. Luật công bình đòi răng đền răng, mắt đền mắt. Còn Chúa Giêsu đến dạy: Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (Mt 5:39).

Trong Phúc âm hôm nay Chúa kể một dụ ngôn về người con hoang đường và phung phá. Chúa kể dụ ngôn này để chỉ cho ta thấy Thiên Chúa muốn người tội lỗi được cứu rỗi. Sự thực thì dụ ngôn này nhắm vào người cha hơn là người con và có lẽ đúng hơn thì nên gọi là dụ ngôn người cha nhân từ hay tha thứ, thay vì người con phung phá. Theo dụ ngôn này thì cả hai người con đều có lỗi. Người con thứ đã phạm tội ích kỉ, tham lam và đàng điếm. Còn người con trưởng lỗi phạm tội ghen tuông và không tha thứ. Đến đây ta tự hỏi ta thuộc loại người con nào? Ta hành động như người con thứ khi ta lạm dụng những ân huệ, phung phá những của cải và tài năng Chúa ban, khi ta ích kỷ và lười biếng. Ta hành động như người con trưởng khi ta ghen tuông với người khác, với người được may mắn và được nhiều ân huệ, với người giàu có và tài năng hơn ta. Ta còn hận Chúa vì gặp phải số phận không may. Người con trưởng được sống giữa tài sản và của cải của cha mình. Đáng lẽ anh ta phải cảm thấy tất cả những của cải mà người cha có cũng là của anh ta vì anh ta sẽ được thừa tự. Tuy nhiên anh ta không nhận định được cái ân huệ người cha đã dành cho mình. Anh ta đóng cửa lòng lại, nhất định không chịu tha thứ cho người em biết sám hối trở về. Ta có thể có kinh nghiệm khi ta đóng cửa lòng lại, không chịu tha thứ, ta cảm thấy tâm can héo hắt. Cái tâm trạng đó có thể hiện trên nét mặt làm ta khó chịu. Chắc là cái nét mặt của người anh trưởng khi thấy người em thứ trở về và được cha đón tiếp cũng rất là khó chịu mà dùng tiếng bình dân gọi là nét mặt hãm tài.

Cái bối cảnh của dụ ngôn hôm nay là các người luật sĩ và biệt phái bất bình với Chúa Giêsu vì Người đón tiếp những người tội lỗi. Họ cho rằng Chúa Giêsu coi nhẹ tội và họ muốn đặt cái giới hạn cho lòng nhân từ của Chúa. Câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay không gợi cho ta một kinh nghiệm nào trong cuộc sống hàng ngày. Bởi vì theo kinh nghiệm loài người, ta không thấy cái thực tại của một người cha nào tốt lành đến nỗi, hối hả chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về trước khi đứa con có dịp xin lỗi và kể lể. Và đó là cái điểm khác biệt giữa việc tha thứ của loài người và việc Chúa thứ tha. Việc tha thứ của loài người chỉ có giới hạn. Còn việc Chúa thứ tha không có giới hạn. Chúa bảo ta phải tha thứ bảy mươi lần bảy.

Nhận thức được cái tình trạng khốn khổ của mình, người con thứ đã quyết định trở về. Đó là cái bước đầu của ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cái khó khăn là khi ta quên lãng lòng nhân từ của Chúa. Vậy điều ta cần là lòng tin tưởng cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa. Chúa vẫn chờ đợi ta tỏ dấu ta muốn trở về làm hoà với Chúa và thay đổi cách sống để được sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa.

 

home Mục lục Lưu trữ