Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1378459

TRỞ VỀ VỚI TÌNH CHA

Trở về với tình Cha

Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe, là một câu chuyện tuyệt vời trong Tin Mừng Luca. Qua đoạn phúc âm ngắn này, Luca cho thấy lòng bao dung nhân từ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi qua hình ảnh người cha nhân hậu. Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để trả lời cho những tiếng xì xầm, bàn tán của người Pharisêu và các kinh sư về việc Người hay tiếp đón những người thu thuế và những kẻ tội lỗi.

Người Pharisêu và các kinh sư tự hào về sự công chính của mình, họ cho rằng mình là người đạo đức vì họ tuân giữ các lề luật một cách nghiêm khắt, giữ các tập tục của họ đưa ra và buộc Thiên Chúa trả ơn cho họ. Vì thế, đôi khi họ tuân giữ hơn những gì mà luật đòi buộc. Họ thường khinh chê, xa lánh và kết án những người bị coi là “tội lỗi”. Qua câu chuyện dụ ngôn, Đức Giêsu không những muốn người thu thuế và người tội lỗi ăn năn sám hối mà chính các người biệt phái và các kinh sư cũng cần phải sám hối để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Thật thế, sau khi tội nguyên tổ xâm nhập, tội lỗi lan tràn vào thế gian. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Người xót thương và tìm cách cứu thoát con người. Ngài hứa ban Đấng Cứu Chuộc để giải thoát con người, giao hoà con người với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với chính họ – chính bản thân chính con người mình. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình thương và lòng nhân ái. Ngài xót thương và thi ân. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Phúc âm chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, có cơm ăn, có áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng (Lc 15, 22).

Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.

Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? Thưa, không phải vậy đâu. Nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám trở về. Bởi có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Đó chính là tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương và tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.

Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.

Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,25).

Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho công việc này sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu,

Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kìa…”.

Rất có thể, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, nhưng nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng, tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài. Vì thế, chúng ta hãy lắng nghe lời từ tốn nhân từ dịu dàng của người cha: con à! Lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha điều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. (Lc 15, 31 – 32). Mỗi lần sống ích kỷ cho riêng mình là chúng ta đã bỏ rơi người cha. Mỗi lần chúng ta xét đoàn, lên án hay không tha thứ cho anh em mình là mỗi lần chúng ta xa rời tình yêu Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta lỗi phạm đến Chúa chúng ta luôn xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta; Thiên Chúa luôn tiếp nhận chúng ta, ngay cả những lúc chúng ta có nhiều lỗi lầm nhất. Vậy tại sao chúng ta không đối xử nhân từ với những thiếu xót và lỗi lầm của anh em mình. Chúng ta không đồng tình với tỗi nhưng chúng ta cảm thông với những người tội lỗi. Chúng ta phải mừng khi một người anh chị em nào đó trong cộng đoàn chúng ta đã phạm tội nhưng nay trở về. Hay một người nào còn sống trong tình trạng tội lỗi, chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa. Nhất là chúng ta cần cảm thông nâng đỡ để người ấy có cơ hội quay về, đặc biệt trong mùa chay này. Mỗi lần làm như thế, chúng ta đón nhận được lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, đồng thời chúng ta cũng muốn thể hiện lòng nhân từ ấy cho tha nhân.

Hôm nay, chúng ta cần nhìn lại bản thân mình. Chúng ta là những người đang sống tốt, sống đạo đức nhưng bấy lâu nay chúng ta có thật sự yêu mến Thiên Chúa hết lòng và bác ái đối với tha nhân chưa? Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu Thiên Chúa như Phê rô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và biết trở về với tình Cha. Đồng thời xin cho chúng con sống yêu thương tha nhân và đối xử với họ như anh em mình. Amen.

 

12. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành:

Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian.

Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.

Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Gs 5,9-12)

Giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho dân Do Thái được vào chiếm hữu đất hứa.

Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân Do Thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.

Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.

  1. Đáp ca (Tv 33)

Ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.

  1. Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)

Dụ ngôn người cha nhân từ: Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.

+ 11-12 – “Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con”: Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì “nắm tiền là nắm quyền”, khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.

Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt “nhãn tiền” những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.

+ 13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.

“Chăn heo”: người Do Thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.

Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi: khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.

Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)

+ 20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành:

“Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy”: Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa: khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.

“Liền động lòng thương”: Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là “liền động lòng thương”.

“Chạy lại”: Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có Do Thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn “chạy”! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi nữa rồi.

“Ôm vào lòng hôn con tha thiết”: cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lôï sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.

+ 21-24 – Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.

“Mau mau đi”: tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.

“Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu”: Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc “áo dài tốt nhất” tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nó đã tự thú “Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê”.

“Đeo nhẫn vào tay”: nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.

“Xỏ giầy vào chân cậu”: theo tục lệ Do Thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).

“Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo”: không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò “chúng ta đã nuôi cho béo”. Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. Một chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.

+ c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh

“Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông”: biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ “phục vụ” Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.

+ c.30 “Thằng con của ông đó”: người con trưởng không coi người con thứ là em mình.

+ c.32 “Em con đây”: người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.

Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.

  1. Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)

Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.

  1. Gợi ý giảng
  2. Thiên Chúa giàu lòng thương xót

Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.

Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.

Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.

Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)

  1. Những con tim

Dụ ngôn này là một câu chuyện về những con tim:

– Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.

– Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.

– Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.

– Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.

– Con tim sám hối và con tim không sám hối.

– Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.

– Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)

  1. Người con gái hoang đàng

Dụ ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau:

Biết bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái hoàng đàng thì sao?

Người con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống như trước: Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.

Có lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.

Vậy, hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.

Nhưng xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.

  1. Trừng phạt và tha thứ

Người con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.

Thế nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.

Trừng phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.

Tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)

  1. Trong đôi mắt cha (Lc 15,1-3. 11-32)

Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?

Bà mẹ đáp:

– Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?

Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:

– Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?

***

Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở” (Tv 17,8).

Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.

Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.

Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31).

Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).

Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.

Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.

Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.

Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.

Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.

Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.

Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.

***

Lạy Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (Thiên Phúc)

  1. Mảnh suy tư

– “Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ” (Oscar Wilde)

– Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.

– Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.

– Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm chứng về tình thương và lòng thương xót của Ngài.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường ngày.
  2. Hiện nay / tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
  3. Phải từ bỏ nếp sống tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
  4. Ganh tỵ và ghen ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.

VII. Giải tán

Hôm nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.

 

13. Thiên Chúa nhân từ tha thứ

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Đa số người đều nhận biết có một Đấng Tuyệt Đối, nhờ Ngài mà vạn sự vạn vật hiện hữu. Ngài vượt trên mọi sự mọi loài, không ai với tới Ngài được, Ngài ở trên trời. “Ông Trời” trong ngôn ngữ Việt Nam cũng chỉ một thực tại siêu vượt, rất gần và rất xa con người. Một số người tức giận khi thấy cảnh bất công mà không thấy Ông Trời can thiệp, nên họ châm biếm “Ông Trời không có mắt”; họ đòi Ông Trời phải can thiệp bênh đỡ người cô thế cô thân bị áp bức bóc lột. Nhiều người hiểu và diễn tả Tuyệt Đối như một người, và đòi Ngài phải hành xử như họ suy nghĩ. Thực ra, con người hữu hạn nên không thể hiểu và diễn tả trọn vẹn về Tuyệt Đối được; hơn nữa, đường lối của Tuyệt Đối không giống như con người: “như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt quá tư tưởng của các ngươi”.

Với dân Do Thái, Thiên Chúa là Đấng đã đưa dân ra khỏi Aicập, đã giải phóng dân khỏi kiếp nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa là Đấng đã tuyển chọn tổ phụ của họ là Abraham, Isaac, và Yacóp, là Đấng đã can thiệp vào lịch sử của họ qua Môsê, Yôsua, và các tiên tri, là Đấng đã để các nước lân bang thống trị và thậm chí còn bị lưu đầy sang Babylon nhưng cuối cùng Ngài vẫn cứu thoát họ. Thiên Chúa là Đấng rất gần gũi dân, Thiên Chúa là Thiên Chúa của dân Israel, và Israel là dân riêng của Thiên Chúa. Niềm hy vọng của dân Do Thái là Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi bị sống trong cảnh đô hộ bị áp bức, dân Do Thái luôn trông chờ Đấng được xức dầu (Kitô), Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.

Thiên Chúa trong Cựu Ước được trình bày như một vị Thiên Chúa công bằng, có chỗ nhấn mạnh như thể Thiên Chúa trừng phạt con người tội lỗi đến ba bốn đời: “cha ăn nho xanh, đời con ghê răng”. Hôm nay trong tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người cha nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người con, để diễn tả tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với con người.

Thiên Chúa yêu thương và tôn trọng con người, như người cha yêu thương và tôn trọng con mình trong dụ ngôn Lc.15, 11-32. Người con thứ đòi người cha chia gia tài; người cha chia gia tài cho anh ta cho dù người con không có quyền đòi hỏi như vậy, dù biết rằng người con đó chẳng chóng thì chầy sẽ bỏ nhà ra đi. Người cha biết con mình một khi bỏ nhà đi sẽ khổ, sẽ mất hết tài sản, nhưng người cha vẫn tôn trọng người con. Người cha rất đau lòng nhưng ông vẫn làm như người con muốn. Thiên Chúa ban tự do cho con người, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người cho dù con người có lạm dụng tự do đó để phản bội Ngài.

Khi người con thứ bỏ nhà ra đi, người cha sống trong niềm hy vọng và chờ đợi. Người cha chờ đợi người con trở về. Chẳng vậy, khi người con thứ còn ở đằng xa, với quần áo xốc xếch và dáng đi rụt rè e ngại, người cha đã chẳng nhận ra con mình. Ông chạy ra ôm người con hoang trở về và hôn lấy hôn để. Người cha vẫn luôn mong đợi người con trở lại, cho dù người con đã xúc phạm đến mình, cho dù người con đã hoang phí biết bao của cải mà người cha đã tốn bao sức lực, với bao vất vả gian lao mới có thể có được. Tất cả những điều đó không quan trọng đối với người cha; điều quan trọng đối với ông, là người con và sự an nguy của anh ta. Thiên Chúa là Đấng hy vọng và chờ đợi tôi hơn bất cứ ai. Với Thiên Chúa, mỗi người là tuyệt đối quan trọng.

Người cha hy vọng mong chờ người con trở về, và rồi sẵn sàng tha thứ cho dù người con chưa nói lên lời xin lỗi. Thiên Chúa mong chờ người tội lỗi trở về, mong chờ họ ăn năn sám hối, để họ được an bình và hạnh phúc. Như người cha năn nỉ người con trưởng vào nhà, Thiên Chúa cũng năn nỉ con người tội lỗi trở lại với Ngài. Hình ảnh Thiên Chúa trong dụ ngôn người cha nhân hậu, thật là dịu dàng, nhẫn nại, bao dung, tha thứ. Người ta thấy Thiên Chúa như thể rất mềm yếu. Thực vậy, chính vì yêu mà Thiên Chúa kiên nhẫn và nhân từ vô cùng đối với con người.

Nhờ Đức Giêsu Kitô, người ta nhận ra dung mạo của Thiên Chúa thật đặc biệt: Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với con người. Khi phạm tội xúc phạm đến Thiên Chúa và anh em mình, tương quan giữa con người với Thiên Chúa bị phá hủy, con người không thể tin tưởng nhau được nữa. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa vẫn yêu thương con người vô cùng. Tương tự như người con hoang đàng trở về vẫn được người cha yêu thương và nhận làm con, con người biết Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của con người. Trước khi được tha thứ, người con hoang đàng không biết số phận của mình như thế nào, vì ao ước của anh ta có thể bị từ chối. Tuy nhiên, khi thấy thái độ của người cha, anh ta nhận ra cha anh là người rất tuyệt vời.

Hôm nay vẫn cần những trung gian để trình bày cho con người thấy dung mạo tuyệt vời của Thiên Chúa: Đấng yêu thương con người vô cùng. Thánh Phaolô đã nói với những người Ngài rao giảng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ và mong ước con người trở lại. “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa đi” (2Co.5, 20). Thiên Chúa yêu thương con người, và điều này có thể được thấy qua việc Thiên Chúa mong con người, cần con người trở lại với Ngài. Yêu ai thì cần người đó. Thiên Chúa yêu tôi nên Ngài cần tôi, Ngài cần tôi vì Ngài yêu tôi. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần ai cả, Ngài hạnh phúc với chính Ngài; không cần ai làm gì để Ngài hạnh phúc; Ngài là hữu thể tròn đầy, không ai làm Ngài mất hạnh phúc được. Tuy nhiên, Thiên Chúa được tôn vinh hơn khi tôi triển nở và hạnh phúc; Ngài hạnh phúc khi tôi hạnh phúc. Chính vì yêu mà Ngài cần con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người đến độ không thể hiểu được: Ngài dám ban Con Một của Ngài cho con người, Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người, để giúp con người nhận ra tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Với bạn, từ ngữ hay hình ảnh nào diễn tả tuyệt nhất về Thiên Chúa?
  2. Bạn được gì khi tin rằng Thiên Chúa yêu thương bạn?

 

14. Chúa Nhật 4 Mùa Chay

Kính thưa ông bà anh chị em! Mùa chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta sám hối trở về. Hôm nay, qua bài Tin Mừng mà thánh sử Luca tường thuật, Chúa Giêsu cho ông bà anh chị em hiểu trở về để được ích lợi gì?

Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, người con thứ sau khi xài hết tiền, phải đi làm mướn để sống nhưng vẫn đói. Anh nhận ra tình trạng khốn khổ của mình và quyết tâm trở về với cha. Ích lợi mà anh hướng đến là xin làm đầy tớ để được ăn no, một mong muốn hoàn toàn vật chất. Nhưng thực tế, khi trở về, anh nhận được điều gì? Phúc Âm cho ta thấy, anh nhận ra cha chờ anh từ xa, chạy lại ôm cổ anh, hôn anh hồi lâu. Nhưng trong lúc đang hôn hồi lâu ấy, anh hiểu ra chuyện đói no đối với mình không còn quan trọng nữa, không cần phải xin nữa vì anh đã nhận được thứ quý giá gấp trăm ngàn lần, đó là niềm hạnh phúc lớn lao khi đón nhận tình thương quá sức tưởng trong vòng tay của cha mình.

Kính thưa ông bà anh chị em! Trở về với Chúa không phải để được Chúa ban làm ăn khắm khá, thăng quan tiến chức, được khỏi bệnh, thoát cảnh nghèo, hết cảnh khổ nhưng để được sống một cuộc đời Kitô hữu có Chúa thật sự sống trong vòng tay yêu thương, sống trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là đủ, tất cả những thứ khác không cần thiết, không quan trọng nữa. Con nói như vậy, chắc có một số trong ông bà anh chị em thắc mắc, mình nghèo, mình khổ thấy mồ, muốn trở về với Chúa để thay đổi hoàn cảnh mà lại bảo Chúa thương là đủ, làm sao người ta chấp nhận được? Bây giờ, chúng ta cùng quay về với Lời Chúa hôm nay để tìm câu trả lời.

Đứa con thứ trở về được cha ôm vào lòng, lập tức cha sai đầy tớ mặc cái áo đẹp cho cậu, đeo nhẫn vào tay cậu, mang giày vào chân câu. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, cái áo tượng trưng sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng sự thay thế quyền bính, mang giày nói lên dấu hiệu một đứa con. Như vậy, những thứ đồ đạc cần thiết của một đứa con, người cha đã trao lại cho người con thứ, cũng đồng nghĩa với tha thứ và sẵn sàng đón con vào nhà. Trong đời sống đạo của ông bà anh chị em cũng vậy, một khi chúng ta hối cải trở về với Chúa và nhận ra mình đang sống trong vòng tay, trong lòng thương xót Chúa thì Thiên Chúa cũng sẽ trả lại cương vị đứa con thừa tự Nước Trời cho chúng ta vốn bị đánh mất do tội, hạnh phúc thiên đàng Chúa sẽ trao ban. Khi đó, mục đích sống đạo của mình đã đạt được, đã thành công. Như vậy, ở trong vòng tay yêu thương của Chúa không phải là đầy đủ lắm sao thưa ông bà anh chị em?

Vậy thì đến với Chúa, phần thưởng thiên đàng được ban mà cuộc sống hiện tại vẫn khổ hoài thì tính làm sao? Ông bà anh chị em đừng quá lo lắng vì khi người con thứ được trao lại cương vị làm con thì cái nó muốn là ăn no dĩ nhiên cũng được đáp ứng, làm con thì muốn ăn thứ gì không được. Do vậy, chúng ta hãy can đảm trở về bên Chúa và trình bày với Chúa hoàn cảnh của mình, con tin rằng Chúa cũng sẽ sớm nâng đỡ ông bà anh chị em, vì Chúa cũng từng hứa: “hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, các thứ khác Chúa sẽ ban cho”.

Nhưng bây giờ, ông bà anh chị em phải trở về bằng cách nào đây? Cách thì có nhiều lắm: mau mắn đi xưng tội trong mùa chay này, đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, đọc kinh sáng tối trong gia đình, nhớ tới Chúa trong ngày sống của mình. Vấn đề quan trọng không phải là cách trở về nhưng là với hoàn cảnh sống hiện tại nhiều trở ngại, ông bà anh chị em có muốn trở về và có dám can đảm trở về hay không?

Trong khi ông bà anh chị em đang trên đường trở về với Chúa trong mùa chay này, xin được nhắc lại với ông bà anh chị em một ích lợi lớn lao chúng ta sẽ đạt được, đó là phần thưởng thiên đàng đó thưa ông bà anh chị em.

 

15. Người Cha tuyệt hảo – AM Trần Bình An

Sau tiếng gọi cửa nhà ông Mạc Văn Mỹ, sinh sống cạnh nhà thờ Xóm Chiếu, một chàng trai cao lớn ra đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu và một cách giao tiếp chào hỏi khá nhanh nhẹn. Ít ai có thể nghĩ rằng đây là chàng trai Mặc Đăng Mừng đã từng bị bệnh down từ khi mới chào đời. Tuy nhiên, qua những năm phấn đấu không ngừng cùng với sự đồng hành của người cha, hiện nay chàng trai này đã biết chơi đàn Organ, bơi lội, đai nâu võ Aikido và đặc biệt anh vừa nhận chứng chỉ nghề tại trường ĐH Văn Lang với chuyên ngành đồ họa.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ luôn rộn rã tiếng cười, ông Mạc Văn Mỹ (bố của Mừng, 66 tuổi) vui mừng đem khoe cuốn album hình ảnh của con trai trong lớp học đàn, học võ và những tấm huy chương Mừng đạt được trong các kì thi thể dục thể thao. Bắt đầu câu chuyện về cuộc đời và nghị lực của cậu con trai mình, ông Mạc Văn Mỹ cho hay, ông và vợ mình là bà Đặng Thị An (66 tuổi) cưới nhau vào năm 1970, sinh được Mừng năm 1988. Từ khi biết Mừng mắc bệnh down, ông Mỹ như mất đi tất cả, nhiều lần ông định đầu hàng nghịch cảnh, nhưng ông nghĩ lại vì thương cho số phận chẳng may của con trai mình. Ông Mỹ đã đưa Mừng đi nhiều nơi chữa trị nhưng không có kết quả. Không muốn con chấp nhận số phận, ông Mỹ đã tự tìm hiểu nhiều phương pháp tự dạy cho con học và tập cho con vượt qua căn bệnh để hòa nhập cùng cộng đồng. Ông Mỹ bồi hồi nhớ lại: “Không muốn con bị người khác chê cười, nên tôi đã tìm phương pháp để dạy cho con biết học Anh văn, học nghề và học nhiều thứ khác để cháu được phát triển tư duy một cách bình thường”. Những ngày đầu tiên cho con đi học ông Mỹ muốn con mình được học đàn, để kích thích các dây thần kinh lên não. Nhiều lần ông Mỹ tìm đến các nơi dạy đàn để đăng kí cho con học, nhưng đều bị từ chối. Không bỏ cuộc, nhiều tháng liền ông tìm đến phòng dạy đàn ở nhà thờ để học lỏm cách đánh đàn, rồi về bàn với vợ gom góp tiền mua đàn về dạy cho con tập đánh đàn. Ngoài việc dạy con đánh đàn, ông Mỹ còn dành thời gian mỗi buổi chiều để tập cho Mừng đi trên những viên đá xanh, giúp kích thích các dây thần kinh từ lòng bàn chân lên não, khiến việc tiếp thu của Mừng nhạy bén hơn.

“Khi đó tôi gõ cửa nơi bán đàn để xin cho con vào học, nhưng thầy bảo con tôi bị bệnh thế thì học được gì. Lúc đó buồn lắm nhưng tôi bảo với họ, là nếu con tôi biết đánh đàn, thì phải nhận dạy cho cháu, thế là họ cho đánh thử, khi con đánh được một đoạn nhạc, thì họ tỏ ra rất ngạc nhiên và sau đó nhận dạy cháu đến bây giờ”, ông Mừng tâm sự. Đến năm Mừng theo học ở trường Võ Thị Sáu, ông Mỹ phải đưa đón con đi học, rồi ngồi lại trường để đợi đón con về. Những ngày nghỉ, ông dạy cho con trai học thêm Anh văn. Thấy việc học phổ thông quá khó đối với con, ông quyết định cho Mừng nghỉ học lớp 9 và tìm trường dạy nghề đồ họa cho Mừng theo học. Với những môn học có tính sáng tạo, Mừng tỏ ra rất thích thú. Những ngày con đến học môn đồ họa ở trường đại học Văn Lang, ông Mỹ xin thầy dạy cho phép được vào học cùng con, những ghi chú của thầy cô dặn dò ông tỉ mỉ ghi chép lại, để về nhà giảng lại cho con. Cứ như thế sau 5 tháng Mừng đã hoàn thành khóa học chứng chỉ nghề kĩ thuật viên đồ họa. Ngoài khóa học trên, ông Mỹ còn cho con mình tham gia rất nhiều khóa học khác như: kỹ năng sống, võ thuật, Anh văn… để Mừng có điều kiện phát triển tốt và tăng tính tư duy hơn. (Hành trình 27 năm của người cha biến đứa con bị bệnh Down thành người bình thường, Tri Thức Trẻ​)

Người cha kể trên chứa chan tình phụ tử, mới kiên nhẫn suốt 27 năm dạy dỗ, huấn luyện đứa con bệnh hoạn nên người hữu dụng, thật đáng khâm phục. Nhưng còn có một Người Cha tuyệt vời hơn thế nữa, luôn thương yêu, thương nhớ, thương xót con cái ngay từ khi lọt lòng mẹ đến trọn cả cuộc đời. Đó chính là Người Cha Tuyệt Hảo ở dụ ngôn trong Tin Mừng Luca hôm nay.

Đức Giêsu chuẩn bị rất chu đáo trước khi bắt đầu thuật dụ ngôn này. Người cẩn thận giáo đầu bằng hai dụ ngôn con chiên đi lạc và đồng tiền bị đánh mất, tha thiết mời gọi lòng ăn năn, sám hối. Vào nội dung chính, Đức Giêsu phác hoạ chân dung Người Cha Tuyệt Hảo, tràn trề tình yêu dành cho hai người con, mặc dù cả hai người đều không cảm nghiệm thấu đáo tình phụ tử vĩ đại đó.

Thương yêu

Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Không hề can ngăn, thắc mắc, khó dễ, lưỡng lự, Người Cha yêu thương con quá đỗi, sẵn sàng chiều theo ý con, mặc dầu Người Cha nhìn thấy tương lai đen tối, mịt mù của con. Người Cha thương yêu ban cho con đầy đủ tài sản, hình hài, tâm trí, lẫn linh hồn. Hơn thế nữa, Người còn ưu ái trao thêm sức mạnh, tài năng, nghị lực, ý chí, chẳng thiếu thốn chi cả. Chàng trai thứ hăm hở vào đời chinh phục lợi danh, chinh phục địa vị, chinh phục cả những bóng hồng. Thế nhưng, chẳng bao lâu, chính chàng lại bị thế gian khắc phục, bị chế ngự bởi tiền tài, chức tước, lợi lộc, đam mê, hưởng thụ. Chàng trở nên nô lệ cho thân xác, vật chất, thế gian.

Tuy Đức Giêsu đã khẳng nhận: “Ai phạm tội thì thành nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, (chỉ) người con mới được ở luôn mãi.” (Ga, 8, 34-35), nhưng tình phụ tử cao cả vẫn tìm cách cứu vãn con người khỏi thân phận nô lệ: “Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự tự do.” (Ga 8, 36) Vì thương yêu, Thiên Chúa Cha ban chính Con mình, là Đức Giêsu nhập thể làm người, chịu khổ nạn, chịu chết để cứu chuộc, nhân loại mới thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, trở lại làm con Chúa.

Thương nhớ

Mặc dù thương con vô ngần, Người Cha đành gạt nước mắt, thổn thức nhìn con ra đi, trái tim Cha rướm máu đào, cũng đành nín thinh, cam chịu. Khi con đi xa rồi, Người Cha thương nhớ con da diết, ngày ngày đều ra đầu ngõ lóng ngóng, mong tin con, chờ đón con về. Chàng trai thứ trở về thật, vì sa cơ thất thế, vì chẳng còn chốn nương thân, cũng chẳng có gì có thể làm dịu cơn đói khát dai dẳng bao tháng ngày. Chỉ còn con đường sống duy nhất là trở về với Người Cha thân thương.

Có lẽ chàng trai nghe được lời mời gọi thương nhớ của Cha: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. (Mt 11, 28) Chàng dứt khoát trở về nhà Cha.

Anh ta còn ở đằng xa, thì Người Cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Ôi giây phút trùng phùng hội ngộ, những giọt nước mắt nóng bỏng, vui sướng, lăn trên gò má nhăn nheo, dãi dầu mưa nắng mòn mỏi đợi chờ.

Thương xót

Nhìn thấy con thảm hại, rách rưới, gầy gò, ốm yếu, xanh xao, Người Cha chạnh lòng thương xót, không kịp để con nói hết lời tạ tội, đã chủ động chạy đến ôm hôn con, vội sai gia nhân mang áo mới, nhẫn ngọc, giầy da cho chàng. Giải thoát chàng khỏi kiếp vong thân, nô lệ, phục hồi lập tức phận làm con cho chàng. Rồi Người hân hoan mở tiệc, mời hàng xóm láng giềng đến chung vui, bởi “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Làm sao diễn tả nổi niềm vui tưng bừng trên Thiên Quốc, khi có người hoán cải hồi hương. “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15, 10)

Nhưng cuộc vui chưa được trọn vẹn, khi người anh cả cố chấp, đố kỵ, hẹp hòi, không thèm nhận lại người em hoang đàng trở về. Anh giận dỗi không chịu vào nhà dự tiệc. Như vậy, tuy ở nhà với Cha, nhưng người anh cả gần mặt cách lòng, tâm hồn đi hoang từ lâu. Làm sao hiểu nổi Lòng Thương Xót vô ngần của Người Cha.

Vậy người anh cả có vâng lời Cha, đón tiếp em mình, hay người em có thật lòng yêu thương và trở lại mãi với Người Cha và anh? Dụ ngôn vẫn còn bỏ ngỏ cái kết hoàn toàn có hậu, thiếu vĩ thanh. Bởi vì Đức Giêsu muốn mời gọi từng Kitô hữu, sẵn sàng nhập vai vào hai người con, cùng diễn tả cuộc đoàn tụ, hiệp nhất, yêu thương, bình an và hạnh phúc trong nhà Người Cha Tuyệt Hảo.

Mới đây, ĐGH Phanxicô giới thiệu về Người Cha với mười lăm trẻ em từ khắp thế giới, trong buổi gặp gỡ chiều thứ hai, 22-02-2016, tại thính phòng Phaolô VI: “Đừng sợ nếu con lỡ phạm tội. Tình yêu của Chúa Giêsu lớn hơn hết mọi sự, cứ đến với Chúa và để Chúa ôm con.”(JB Thái Hoà, Andrea Tornielli, Vatican Insider)

“Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu, mà người ấy tập yêu suốt đời.” ( Đường Hy Vọng, số 462)

Lạy Chúa Giêsu chí ái, xin dủ lòng thương xót chúng con, vốn như hai người anh em trong dụ ngôn, người bỏ nhà ra đi hoang, người ở nhà mà xa cách Cha. Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng con biết quy hướng về sự thiện, tốt lành, thánh đức, để chúng con can đảm từ bỏ cám dỗ, thế gian, xác thịt, mà ăn năm sám hối trở về tình yêu của Người Cha Nhân lành, để chúng con biết khoan dung hầu được tha thứ, biết cho đi hầu được lãnh nhận, biết yêu thương để được hưởng Lòng Thương Xót.

Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ luôn gần gũi, đồng hành với Con Mẹ, xin Mẹ đừng để chúng con xa rời Chúa, đừng nghe theo đam mê, dục vọng, tiền bạc, danh vọng mà bỏ nhà Cha Nhân Lành. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết sám hối trở về, biết yêu thương tha thứ cho nhau, để luôn được sống trong tình yêu Chúa. Amen.

 

16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy

ĐƯỜNG CỦA CON NGƯỜI và ĐƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA

Dụ ngôn “ Người cha nhân hậu” trong bài Tin Mừng hôm nay đã nêu rõ những con đường khác nhau: Con đường của người con thứ, con đường đã dẫn đưa cậu đi đến một miền đất xa lạ, cách xa khỏi cha cậu. Con đường của người cha ra đón cậu con thứ

Con đường của người con cả.

Và con đường người cha đi gặp người con cả.

Ðó là những con đường khác nhau, và chúng sẽ: hoặc dẫn tới đích, hoặc chúng chỉ là những ngõ cụt hay là những con đường mất hút trong rừng sâu và không tìm được lối ra.

Thứ nhất: Con đường đi tìm lại sự tự do.

Với số gia tài trong tay, người con thứ đã bỏ nhà cha mình và trẩy đi đến một miền xa lạ. Cậu muốn tận hưởng hạnh phúc và sự tự do riêng của mình theo ý muốn. Người cha đành phải để cho cậu ra đi. Giờ đây mọi sự chỉ còn tùy thuộc vào thái độ của cậu trước các thách đố của đời và liệu cậu có đứng vững được hay không! Vâng, vấn đề có tính cách quyết định là ở chỗ: Tâm tình cậu con vẫn còn luôn tưởng nhớ đến cha cậu và luôn gắn bó với ông, cũng như cậu biết xử dụng phần gia tài được chia cho cậu, đúng với ý cha cậu; hay: Cậu đã cắt đứt mọi liên hệ với cha mình và tổ chức một cuộc sống riêng không dính dáng gì với cha nữa, nếu không nói là một cuộc sống phản lại cha! Sự tự do với cha hay một sự tự do không có cha! Chúng ta đọc thấy trong câu chuyện dụ ngôn. Người con thứ đã tìm cách sống sự tự do của mình không có cha!

Nhưng chúng ta cũng thấy được rằng con đường của người con thứ – với sự tự do không có cha – đã đưa dẫn cậu tới sự bất hạnh, tới một tình trạng bất tự do.

Thật vậy, những ai không còn muốn liên hệ gắn bó với cha mình, thì sẽ ràng buộc mình với nhiều thứ khác: tiền bạc, các đòi hỏi tự nhiên, các thú vui lệch lạc rẻ tiền, v.v… Người ta sẽ trở thành nô lệ cho những thứ đó và tự đánh mất các phẩm chất, tư cách và chính bản ngã của mình. Người ta sẽ trở thành một con người thiếu nội tâm. Ðó chính là sự đánh mất bản sắc riêng!

Câu chuyện dụ ngôn đã nói lên tình trạng buồn thảm đó khi tường thuật: con đường của cậu con thứ đã kết thúc nơi những con heo. Nói cách khác: Người con thứ đã không đứng vững được trước các cám dỗ và thử thách của đời. Cậu đã thất bại trong mọi lãnh vực: tài chánh, luân lý, đạo đức, nhân bản. Cậu thực sự hoàn toàn kiệt quệ và phá sản! Cậu đã đánh mất tất cả. Trong thực tế, cậu quả là một người con hoang đàng dại dột!

Tuy nhiên, trong trái tim cậu, sự khao khát mong muốn sự tự do quá mãnh liệt, khiến cậu ngay giữa cảnh mất mát thất bại đã can đảm đứng lên và bước theo con đường dẫn về cùng cha cậu. Ðó chính là con đường dẫn tới sự tự do chân thật, một sự tự do cậu chỉ có được qua sự gắn bó mật thiệt với cha!

Thứ hai: con đường của người con cả – một con đường rừng!

Người con cả trong dụ ngôn tuy luôn có mặt bên cạnh với cha cậu, nhưng lòng cậu lại cách xa cha. Con đường của cậu xem vẻ bên ngoài không đi xa khỏi cha như con đường của đứa con thứ. Nhưng người con cả cũng không đi chung với cha cậu trên cùng một con đường, khi ông đi ra đón người con thứ của mình đang quay gót trở về cùng ông.

Ai không liên kết gắn bó với cha, thì cũng không tìm ra con đường dẫn tới người anh em của mình. Người con cả nói với cha cậu: “ Thằng con của cha đó đã ăn chơi trác táng và phung phá tiền bạc của cha với bọn đĩ điếm…!” Người cha liền nhân từ và đầy thông cảm cắt nghĩa cho cậu hiểu: “ Em con đã quay trở lại nhà, nó đã chết nay sống lại, nó đã mất nay lại tìm thấy…!” Ai không đi trên con đường dẫn tới người anh em của mình, người đó cũng lỡ bước trên con đường dẫn về cùng cha.

Thứ ba: Con đường của người cha!

Con đường của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh tượng trưng cho con đường của Thiên Chúa. Con đường đó dẫn tới nhân loại. Người cha chạy ra đón tiếp đứa con hư hỏng trở về. Ông vui mừng ôm con vào lòng, chứ không hề trách móc la mắng con, như thể: Lỗi lầm của mi thật quá nặng nề. Cái dại của mi thật không sao nói hết… Nhưng tao tha cho lần này là lần chót…! Không. Ông không hề nói gì cả, ông chỉ vui mừng ôm lấy con! Ðó không phải là “ chiến thuật” sư phạm, nhưng là dấu chỉ của tình thương và lòng nhân hậu chân thành của một người cha: Con tôi đã mất và nay lại trở về với tôi! Ðứa con hoang đàng hư hỏng nay lại trở về trong nhà cha cậu và được nhận lại quyền làm con của mình.

Ðúng vậy, tình yêu đích thực không bới mói tội lỗi, nhưng là trao ban sự tha thứ và niềm vui mừng. Tuy nhiên người cha cũng đi ra gặp cậu con cả và cắt nghĩa cho cậu hiểu để cậu cùng mừng với ông. Vì ông rất biết là một bữa tiệc chỉ trọn vẹn khi mọi người cùng vui vẻ với nhau!

Nói tóm lại, qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu muốn nói cho chúng ta những điều này:

  1. Thiên Chúa là một Thiên Chúa đi tìm kiếm con người, một Thiên Chúa mời gọi con người đến dự tiệc với mình, một Thiên Chúa vẫn giữ vững lời mời, cả khi chúng ta tỏ ra thất trung và đi theo con đường của mình tự chọn lấy, chứ không bước đi trên con đường của Người đã chỉ cho.
  2. Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, đến nỗi một kẻ dù đã sa ngã và lâm vào vòng tội lỗi, vẫn có thể trở thành một người tốt lành được. Người không bao giờ loại trừ ai, vì trong tình yêu của Người, Thiên Chúa không hề thất tín. Tình yêu của Người vô cùng bao la, đến nỗi Người vẫn luôn kiên tâm chờ đợi mong mỏi cả những kẻ đã bỏ Người đi xa muôn dặm. Người đi gặp gỡ họ và đón tiếp họ, như thể không hề có gì đã xảy ra, tương tự như người cha đón tiếp người con hư hỏng trong dụ ngôn.
  3. Thiên Chúa là một Thiên Chúa của tình yêu thương, của niềm hoan lạc vui mừng, Ðấng hằng muốn cùng chung vui với con cái loài người chúng ta.

Chớ gì tất cả những mặc khải đó mang lại cho tất cả chúng ta sự can đảm và sức mạnh, để tìm ra được con đường sám hối, con đường dẫn chúng ta tới cùng Thiên Chúa và tới cùng những người anh em đồng loại của chúng ta. Amen.

 

17. Lòng Cha trời cao biển rộng – AM. Trần Bình An

Có trường hợp sau khi bỏ nhà đi hoang trở về, các cậu ấm cô chiêu cảm thấy tởn tới già, như trường hợp của K. ở huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang). Sau khi liên tục chứng kiến cảnh cha mẹ mình cứ xung đột, lại thường xuyên bỏ bê con cái, để lo chuyện làm ăn, nên K. đã bỏ nhà lên TP.HCM đi hoang với một bạn “chat” có cùng cảnh ngộ.

Được chừng 10 ngày, K. cảm thấy nhớ nhà, nhưng không biết làm cách nào trở về, vì trong túi không còn một xu. May thay, nhờ một phụ nữ người Hoa tốt bụng cho 50.000 đồng, K. đã đón xe tốc hành về nhà. Kể từ ngày đó, cha mẹ của K. cũng giảm bớt sự căng thẳng với nhau và chăm sóc anh em K. rất chu đáo.

Tuy vậy, khi tiếp xúc với mọi người, K. cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vì theo K.: “Ở nhà có cha mẹ, có chăn êm nệm ấm tội gì không ở, đi hoang chi cho… muỗi cắn và bị mọi người dòm ngó bằng cặp mắt lúc nào cũng đề phòng.” (Người Lao Động)

Câu chuyện trên cũng như dụ ngôn người con hoang đàng trở về hôm nay, (Lc 15, 11- 32) vẫn còn là một đề tài nhức nhối và nóng bỏng trong xã hội hiện đại.

Đi hoang trở về

Người con thứ đi hoang đã sám hối trở về. “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15, 18-19)

Người cha già cả, dẫu tuổi cao sức yếu, vô cùng hân hoan mừng rỡ, thấy con từ đàng xa, đã lật đật, bước thấp bước cao, chạy đến ôm hôn. Cuộc trở về trở nên sự kiện long trọng, nổi đình đám của một gia đình đang ưu uất, buồn bã, phân ly bấy lâu nay.

Khi vào bước đường cùng, người con thứ mới chạnh lòng nhớ đến Cha già xa xăm. Chàng mới nhận ra tấm lòng nhân hậu của Cha, khiến cho đôi chân lãng tử quay trở về.

Người Cha lâu nay bị lãng quên, nay kịp thời lóe sáng như ngọn hải đăng, dẫn dắt và cứu thoát chàng khỏi chốn tối tăm, vô vọng. Trong cảnh khốn cùng, tất cả đều qua đi, chỉ còn lại tình yêu, ta có thể sở hữu tình yêu mãi mãi, trong khi những thứ khác thì qua đi. (1Cr 13,8b-10).

Mỗi khi tôi sa cơ thất thế, hoạn nạn hay khốn khổ, sao tôi không nhớ ra, vẫn có Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi chở đợi tôi tha phương, trở về nương tựa? Việc gì tôi cứ mãi lo âu buồn bã, thất vọng với cõi đời u ám, lọc lừa, bất nhân?

Đi hoang ở nhà

Người anh trái lại, tuy ở nhà mang tiếng là phụng dưỡng cha, nhưng lòng dạ đen tối, chất chứa đố kỵ, ghen tuông, hằn học, khi thấy “thằng con của cha đó” trở về. Anh không thèm nhìn mặt đứa em, đã cải tà quy chánh. Nghe biết chuyện, anh còn nổi giận, không thèm bước vào căn nhà, đang rộn rã niềm vui tái ngộ.

Lòng dạ cố chấp, tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, đã cản bước chân anh hội nhập vào cuộc chung vui và tha thứ. Tuy anh ở với cha già, nhưng chỉ có thân xác hiện diện, còn tấm lòng, tinh thần anh đã đi hoang từ hồi nào! Hóa ra, anh cũng chỉ thèm thuồng của cải, vật chất, tầm thường, phù vân, như chú em ngày xưa. Anh chỉ mong được một “con dê con,” để tưng bừng liên hoan đánh chén, bù khú với chúng bạn.

Thực ra, anh kiêu căng, tự phụ là đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết vâng nghe người cha. Cho nên, anh mới không hề ngượng mồm, vanh vách kể công: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà…” Anh nào cảm nhận, thán phục, kính trọng, và ca ngợi tấm lòng Người Cha Nhân Lành vô bờ, chứa chan yêu thương, tựa như trời cao biển rộng!

Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng:“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác sống theo thế gian, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, dèm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành. Thiệt là quá đáng! Làm sao vui lòng Người Cha Nhân Lành được?

Người Cha Nhân Lành

Các nhà chú giải Kinh Thánh đều tỏ ra bất đồng tình về cái tựa Người Con Hoang Đàng, đặt cho dụ ngôn này, vì làm sai lệch ý nghĩa. Có lẽ lấy tựa là Người Cha Nhân Lành thì phù hợp hơn.

Người Cha nhẫn nhục, chia tài sản cho con thứ, dù biết chàng sẽ phung phí ăn chơi sa đọa. Người vẫn tôn trọng sự tự do của chàng. Rồi sau này lại nhẫn nhục, năn nỉ người con cả, nguôi cơn giận hờn vào nhà chung vui.

Người Cha còn quảng đại nhân từ, quên sạch mọi tội lỗi, mọi lỗi lầm, bất hiếu, không để con thứ kịp nói hết lời ăn năn, sám hối, mà hoan hỉ, vội sai ngay gia nhân hầu hạ, phục dịch chàng. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc 15, 22-24)

Người Cha nói chẳng khác chi ông chủ tìm lại được con chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc.” (Lc 15, 6) Hoặc như bà góa hớn hở tìm được đồng tiền rơi mất: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” (Lc 15, 9)

Tôi khá nhiều khi thất vọng, không nhớ đến Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi trông mong tôi trở về mái nhà ấm cúng, bình an. Có lẽ vì tôi chủ quan, cho mình đã ngoan đạo, mà thực ra, chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc, theo chân Pharisiêu, mà tâm hồn cứ mãi đi hoang, đi bụi, mãi thèm “con dê con”, mải mê ham vui, mải mê đố kỵ, ganh ghét,…

May thay, bí tích hòa giải đã giúp tôi hoán cải trở về với Người Cha Nhân Lành. Người hằng mong tôi sám hối trở về với tình thương vô bến bờ. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.

Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng, người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha Nhân Từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng. (Đường Hy Vọng, 664)

Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con luôn biết hồi tâm, nhận ra sự dại dột và tệ bạc của mình trước tình yêu vô bờ bến của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn biết trông cậy vào lòng Người Cha Nhân Lành, để ăn năn, sám hối trở về với Ngài.

 

18. Trở về

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.

Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó. Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.

Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.

Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha. Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.

Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã. Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.

Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út. Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.

Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí. Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng. Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.

Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.

Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha. Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh. Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.

Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Sám hối là trở về với tình cha. Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.

Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.

Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.

Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.

Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.

Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con. Cha không muốn mất một đứa con nào.

Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em. Đó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.

Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình. Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về? Bạn thường sám hối trở về vì lý do nào?

Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội. Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

 

19. Trở về với Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)

Dụ ngôn người cha nhân hậu trong trang Tin mừng chúa nhật hôm nay cho thấy sự cần thiết của việc trở về cùng Thiên Chúa.

Người con thứ sau khi đã phung phí hết tài sản, đã đi vào đường cùng của sa đoạ, đã đánh mất đi phẩm giá của một con người qua việc thèm khát những thức ăn của bầy heo. Nay anh đã hồi tâm, ước mong thay đổi thái độ sống, muốn quay trở về với người cha nhân hậu của mình.

Và thực sự, anh ấy đã thực hiện thật nghiêm túc với điều mà mình mong muốn. Khi trở về với người cha, người con thứ đã bộc lộ sự khiêm tốn xuất phát từ chuỗi ngày quá khứ đen tối mà anh đã kịp nhìn nhận, khi anh thưa cùng người cha:” Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng được gọi là con cha nữa…”(Lc 15,21)

Trước thái độ hối cải của người con, chúng ta hình dung như thế nào về tâm trạng của người cha trong lúc này? Đó là sự đón tiếp mừng rỡ hơn xua đuổi, đồng thời niềm vui sướng của người cha trong lúc này đã làm cho ông quên đi gánh nặng đau khổ mà hôm nay chính đứa con này đã gây ra cho ông. Nói chung tâm trạng của người cha trong lúc này chỉ có một điều là vui mừng. Vui mừng khi thấy con trở về, vui mừng khi phục hồi phẩm giá lại cho con qua việc truyền cho đầy tớ phải mặc áo đẹp nhất cho con, xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cho con trai của mình. Và niềm vui mừng của người cha còn được thể hiện qua bữa tiệc rất ngon lành với con bê béo và rượu ngon. Thế nhưng bao nhiêu cử chỉ ấy cũng chưa đủ nói lên niềm vui nơi người cha nhân hậu mà chúng ta bắt gặp trong bài dụ ngôn thật độc đáo của chúa nhật hôm nay. Vì nguyên nhân sâu thẳm để người cha có được niềm vui thật sự là khi thấy người con tội lỗi không thất vọng về tình thương và ơn tha thứ của mình. Chắc hẳn thái độ hy vọng vào lòng thương xót của người con đối với cha, còn quý hơn sự hiện diện của anh ấy trước ánh mắt nhân từ người cha.

Thực ra thái độ không thất vọng vào tình thương của Thiên Chúa, không phải chỉ có trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể đâu. Nhưng trong thực tế đã có rất nhiều những mẫu gương nhờ lòng cậy trông và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà họ đã trở nên thánh. Ta thấy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ của Chúa, ông đã sám hối và được ơn biến đổi. Sau này vẫn được Chúa chọn làm trưởng Tông đồ đoàn. Phaolô trước khi trở thành tông đồ của dân ngoại thì ông đã bắt bớ và giết các tín hữu không nương tay. Nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ Phaolô vẫn được Chúa chọn làm tông đồ để thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Augustinô sau thời gian dài ăn chơi buông thả, nhưng nhờ tin vào ơn tha thứ của Chúa, nhờ những dòng lệ thành tâm hối hận, Augustinô đã được Chúa chọn làm Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Và còn biết bao nhiêu chứng nhân hy vọng khác nữa…

Đã là người thì ai cũng có tội. Đó là thân phận chung của con người. Nhưng chúng ta còn có lối thoát để được bình an với lương tâm và hạnh phúc trong nước Thiên Chúa. Lối thóat đó Chúa đã vẽ ra cho chúng ta, và Chúa đang chờ chúng ta ở cuối lối mòn này. Lối thoát ấy chính là đường hy vọng vào tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Khi ta đánh mất đi niềm hy vọng vào ơn tha thứ và tình thương hải hà của Thiên Chúa, thì kể như đời ta đã bế tắc, đi vào đường cùng của sự diệt vong, sự sống tương lai sẽ không còn hy vọng.

Vì thế, Cha Charles De Foucauld có để lại mấy dòng sau: “dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng điều đó… Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nan của con. Chúa không cho con nói: Tôi không thể đi tới được đường lên trời, khó khăn quá tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp… Vậy Chúa muốn con phải cậy trông luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa”.

Như vậy thật may mắn cho chúng ta, vì bao nhiêu lần gục ngã do tội lỗi, chúng ta vẫn có quyền hướng về hạnh phúc tương lai đang chờ ta. Hạnh phúc đó lệ thuộc vào ta, khi trên hết mỗi người đừng đánh mất trước lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng đánh mất trước sự quảng đại ban ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa không bao giờ từ chối chúng ta khi chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Vì Thiên Chúa không nỡ lòng bẻ gẫy cây sậy đã dập và cũng không nhẫn tâm dập tắt tim đèn còn khói.

Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn. Thế nhưng hạnh phúc Thiên đàng thì con người lại càng khao khát và mong muốn hơn, và Thiên Chúa rất mong chúng ta có được hạnh phúc đích thực này.

Chúng ta sẽ có hạnh phúc khi chúng ta biết trở về cùng Thiên Chúa biết đặt tất cả lòng cậy trông vào ơn tha thứ vô tư của Thiên Chúa. Nói chung ta không được phép thất vọng về lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Hãy nhớ rằng Chúa chỉ dựng lên chúng ta một lần, nhưng ơn tha thứ cho những người trông cậy nơi Chúa thì Ngài vẫn tha thứ mãi, tha thứ vô điều kiện. Như vậy đón nhận ơn tha thứ của Chúa thường xuyên nơi Bí tích giải tội, hay trong những ngày còn lại của mùa chay thánh này, sẽ là lời minh chứng để nói lên tâm hồn chúng ta còn co hy vọng và tin tưởng nơi ơn tha thứ của Chúa hay không?.

 

home Mục lục Lưu trữ