Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1378659

Từ thán phục đến đức tin

Từ thán phục đến đức tin – Lm. FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Đoạn này có một phần thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin coi bài CN tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum” lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

1) Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (1,29-31);

2) Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (1,32-34);

3) Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (1,35-39).

3.- Vài điểm chú giải

- Vừa ra khỏi… (euthys, “tức khắc”) (29): Trạng từ này chỉ có vai trò chuyển mạch, chứ không chỉ về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ trừ quỷ đến việc chữa bệnh cho bà mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng thời gian khá dài thì “danh tiếng Người mới đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán cho nó một ý nghĩa chính xác nào cả (chỉ trong ch. 1 đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43). Ở đây Người đang tìm cách giới thiệu một ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu: “Ngày ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được thời điểm chính xác của các sự kiện. Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh cbuổi chiều” đã có trước cả khi các TMNL được soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều đến” đã có cả trong Mc và Mt. Lc đã bỏ trạng từ “tức khắc” (euthys) nhưng giữ lại chi tiết “(rời) hội đường”. Ngài sẽ triển khai chi tiết này thành một đề tài thần học quan trọng và sẽ lặp lại trong sách Cv: khi Đức Giêsu giảng dạy trong một thành phố hay làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng giảng dạy tại hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.

- ra khỏi hội đường (29): Đức Giêsu ra khỏi hội đường không những vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng còn vì những người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi: “Thế nghĩa là gì?” (c. 27), như các môn đệ sau này khi chứng kiến trận bão được dẹp yên: “Vậy người này là ai?” (4,41). Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là một biểu tượng: bao lâu người ta còn ở trong hội đường, người ta không thể trở thành môn đệ của Đức Giêsu được; phải ra khỏi đó như thể thực hiện một cuộc xuất hành mới. Ở c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân biệt: “các hội đường của họ”. Ở xa hơn, ngài kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm phép lạ trong hội đường, nhóm Pharisêu bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người (3,1-6). Chính vì thế, Người lánh về phía Biển Hồ: Người đi ra và người ta lũ lượt đi theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh riêng ra một nơi và người ta kéo đến với Người (6,32-33). Người còn ra khỏi Đền Thờ và thành Giêrusalem (11,11; 11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên giảng dạy tại hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị giết (Lc 4,16-30).

- Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn đối lập hội đường với nhà Simôn, được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra, Mc chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái Hội Thánh như Mt và Lc: hai tác giả này chỉ còn nói đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38), nên trong hai bản văn này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng hơn.

- Có ông Giacôbê và Gioan (29): Bốn môn đệ đầu tiên, những người thân tín nhất, được chứng kiến phép lạ. Câu này hẳn là có giá trị như một ngoặc đơn, do chính Phêrô kể cho tác giả Mc.

- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân từ nữ tính của động từ Hy Lạp pyressô, “bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr, “lửa”. Trong bản văn song song, Mt 8,15 dùng danh từ hL pyretos, “sức nóng của lửa; sốt cao”). Đối với người xưa, “sốt” không phải là một triệu chứng mà là một bệnh. Sốt, đôi khi đưa đến tử vong, là một trong các hình phạt Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung của Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho các chứng bệnh khác, người ta thích gán cho “sốt” một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31), mà chỉ có việc cầu nguyện và một phép lạ mới thắng được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).

Theo viễn tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép lạ giới thiệu Đức Giêsu là vị sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa; vị này sẽ cứu loài người khỏi những nỗi đau buồn, hậu quả của sự dữ luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3; 35,5…). Vậy phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời cánh chung, thời thiên sai: Đức Giêsu đang hành động với chính quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng con người còn phải mất một thời gian mới khám phá ra và chấp nhận được ý nghĩa của dấu chỉ này.

- Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này dịch sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn tả một cách thông thường, hẳn là nên viết: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến mất; bà trỗi dậy …”. Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt 8,15: “bà trỗi dậy”, êgerthê, aor. pass. của động từ HL egeirô) và Lc (Lc 4,39: “bà trỗi dậy”, anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi). Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”, đã trở thành một từ ngữ chuyên môn để nói về sự sống lại.

- bà phục vụ các ngài (31): Trong bối cảnh của phép lạ hoặc đúng hơn trong bối cảnh của sự tiếp đón Đức Giêsu nhận được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL. diakoneô) trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc 1,13; Lc 8,55). Nhưng ở đây, có thể tác giả Mc đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói: “Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (diakonêsai)” (10,45). “Phục vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại việc “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô đề nghị cho những ai Người đã cho sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.

Riêng Mt lại viết ở dạng số đơn: “bà chỗi dậy phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu này đã nới rộng ý nghĩa của động từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước theo Người (x. Mt 25,44: phục vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục vụ Đức Kitô).

- người ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở thì vị-hoàn (frequentative imperfect), có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.

- mọi kẻ ốm (32): Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa đen những câu khẳng định tuyệt đối như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết là Đức Giêsu không chữa tất cả mọi người đau ốm; Người đòi hỏi đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi xa hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên, theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có nghĩa là “tất cả”.

- Cả thành (33): Có lẽ đây cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát hoá. Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì người quá đông, đành phải kéo người bệnh lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc phải nhờ người báo tin vào trong (3,32).

- Quỷ (34): Từ daimôn xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và thêm một lần nữa ở c. 39. Đây là mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã đến để đánh đuổi quỷ và giải thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay từ đầu, vị Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn” (1,7). Người đã khởi đầu sứ vụ bằng một chiến thắng trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi Người lên tiếng rao giảng, một kẻ bị quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27). Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ đầu tiên thuộc về người môn đệ hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17). Trong viễn tượng này, mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên, mọi cuộc chữa lành bệnh tật đều là một chiến thắng trên quỷ. Chúng ta cũng ghi nhận là Mc không cung cấp một định nghĩa nào về ma quỷ, cũng không nói chúng là loại hữu thể nào; nhưng đọc các mô tả của ngài, ta ghi nhận ba nét tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi phối loài người; 2) chúng biết chân tính của Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của chúng; 3) chúng vâng phục Satan (3,22-26) là kẻ ở trong sa mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành động chống lại hoạt động của Đức Giêsu (4,15).

- không cho quỷ nói (34): Tác giả Mc trở lại với lệnh giữ bí mật (thiên sai) như trở lại với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức khắc nhận ra đối thủ của chúng, nên chúng đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế “thượng phong”, nhưng chắc chắn vì sợ hãi, vì đã thấy trước thất bại, khi đứng trước Đấng Thiên Chúa sai phái đến (x. 3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự mạc khải ra cho họ cách tiệm tiến bằng cách cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Người trên những chứng nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12), trên ngày sa-bát (2,28), và cuối cùng trên sự sống (ch. 15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất chậm.

Như vậy, một hành vi đức tin đặt nơi Đức Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm chứa một hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Người, đặc biệt hiểu rằng Người phải chết và sống lại để hoàn tất công việc này.

- Người đi cầu nguyện (35): Tác giả Lc sẽ nói nhiều hơn về điểm này. Mc không cho biết đối tượng hoặc nội dung của lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu nguyện: đối thoại với Cha Người về sứ mạng Người đang thực hiện.

- vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải chăng đây là ra đi khỏi Caphácnaum hay là rời cung lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga 16,28; x. Lc 4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự kiện đã xảy ra: Đức Giêsu không muốn mình bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau khi nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô tịch để tránh dân chúng và để đặt mình vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46; x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ ra ngỡ ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của Thầy.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (29-31)

Tại nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).

* Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)

Hành vi đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.

* Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (35-39)

Vì Đức Giêsu đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng của dân chúng, không lạ gì khi chúng ta thấy họ muốn giữ Người lại và như thế chắc chắn là luôn luôn có sự trợ giúp của Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người đã vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta cầm giữ lại. Người biết rằng nhiệm vụ của Người không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.

+ Kết luận

Tuy các nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma hơn là một sách huấn giáo, điều này không có nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời hợt. Trái lại, ngài rất đòi hỏi. Chính vì thế, ngài đã có một khoa sư phạm đáng phục: giúp độc giả tiếp cận với mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Ngài hiểu rất rõ là đức tin sẽ đưa người ta đến sự đổi đời với những dấn thân quan trọng. Phải chăng Phêrô đã nhấn mạnh như thế, sau khi trải qua kinh nghiện đau thương? Nhưng cũng chắc chắn là bởi vì vào lúc TM II được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó các Kitô hữu đang sống là những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta phải cương quyết gắn bó với Đức Kitô cho đến chết.

Đoạn Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng, bên ngoài những lãnh thổ quen thuộc.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Cũng như ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời giảng dạy uy quyền bằng việc trừ quỷ, Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo bằng việc dùng uy quyền trục xuất các sức mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ loài người. Lời nói của Người được chứng thực bằng việc làm của Người.

2. Liên kết giữa loan báo và hành vi quyền lực nhằm chữa lành cũng là đặc điểm của hoạt động của các tông đồ (3,14t; 6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên Chúa được củng cố bằng hành động hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của Thiên Chúa.

3. Gương Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô).

4. Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Đức Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.

Không được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là Đấng Cứu Độ loài người, Người đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng sống động. Một mình nơi hoang địa, Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành đời sống nội tâm – ăn chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám hối – nhờ đó thắng vượt các cám dỗ của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh Thần.

Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận rằng ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là để cho ở bên trong, con ở với Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở một mình, nếu bạn không ở một mình với Người! Và có biết bao người ở trong đám đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì họ không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào lúc này, không có ai ở với con, thế nhưng con không cô độc: con là một đám đông với chính con” (Guigues le Chartreux, 1083-1136).

 

70. Tình thương cứu chữa

(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? là một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.

Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.

Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.

Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Sam-sông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quì làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.

Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.

 

71. Chú giải của Noel Quesson

Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu tiên trong đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.

Vừa ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.

Sau khi đã giảng dạy và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia, nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng con.

Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.

Người ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một "dấu hiệu” biểu lộ sự yếu đuối của thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người có thể chịu những rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật luôn mâu thuẫn với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang "dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn và ta không thể tránh được.

Họ liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy.

Thái độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà. Tôi lắng nghe những gì người ta đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh, cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một "cử chỉ của Đức Kitô". Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã "làm những việc kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó. Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các "cơn sốt". Khi rước lễ, con cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con.

Người đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.

Khi đọc câu này trong bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây, từ "ègeire", có nghĩa là "làm cho sống lại". Ong cũng dùng một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại: "Hãy chỗi dậy!" (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6). Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một “dấu chỉ" theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn "tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết" (Kh 21,1-4) Ngay trong thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân. Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước cho "Thời cánh chung": chỉ khi đó con người mới được "cứu độ" thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống hiến, đó là đi từ tình trạng "không tin" đến tình trạng "tin": kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ "chỗi dậy" để "phục vụ”.

Sự dữ mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm hồn, đó là trung tâm" của người bị bệnh... khi họ không "phục vụ” anh em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu "tiếp đãi” Máccô muốn nói với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong nhớ đến từ “phục vụ” mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban mạng sống mình": "Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Lạy Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt "kẻ khác" lên hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết "phục vụ', "hiến dâng mạng sống" và yêu thương!

Chiều tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất nhiều quỷ.

Có thể nói, cùng một tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta. Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc thang.

Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự điều chỉnh đúng đắn.. Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển "đô thành trần thế" (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là thứ "chất độc" do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm nay.

Người trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là ai.

Đề tài “Bí mật thiên sai" lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và 1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.

Người buộc mọi người phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa". Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.

Người ta chỉ chạy đến với Chúa, như với một "người chữa bệnh" đến thuần. Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa không phải là "toàn năng" theo nghĩa chúng ta thường hiểu.. Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu đuối" đối với chúng ta... bởi vì Người là "tình yêu toàn năng". Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi... Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là "Ai" chứ! Đúng vậy Người đã minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của thái độ "phục vụ”... Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng tiếng.

Lạy Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn "quyền năng" theo nghĩa trần gian... "bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (l Cr 1,25).

Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.

Ngay đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều "cốt yếu” sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là "Gặp gỡ Chúa Cha".

Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người...

Vào sáng sớm; khi bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi đến "một nơi hoang vắng". Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở "bên cạnh Chúa Cha", chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên Chúa". Chính trong khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.

Câu Tin Mừng trên đây không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một điểm nóng bỏng của "ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người đang "kêu gọi" ta, nhưng "trong yên lặng": ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa... Căn bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.

Kẻ nào biết "ẩn mình trong Thiên Chúa" nơi hoang địa là một người được cứu độ.

Lúc đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.

Này bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi...

Này bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn... bạn có biết nhận ra "tin vui" được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?

Khi gặp Người, họ thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy"' Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.

Vâng, lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho công cuộc Phục sinh.

 

72. Hoạt động & cầu nguyện trong đời sống của ĐGS

(Mc 1, 29-39)

Kính thưa Quý Bề trên và Chị em,

Chúng ta vừa trải qua những ngày đầu Xuân Nhâm Thìn 2012 với biết bao niềm vui. Trong những ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta đều nhận được rất nhiều lời chúc thật hay, thật ý nghĩa, nhưng có lẽ chỉ một lời Chúc chúng ta cần và mong đợi đó là mỗi ngày trong Năm Mới chúng ta được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô. Chúng ta sẽ nên giống Đức Kitô như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một đáp án, đó là: hoạt động và cầu nguyện như Đức Kitô.

I. LỜI CHÚA: CHÚA NHẬT 5 TN B (Mc 1, 29-39)

(29) Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

(32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.

(35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (39) Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

II. SUY NIỆM

Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một ngày sinh hoạt của Đức Giêsu tại Caphanaum. Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế ám trong hội đường (Mc 1, 23-28), Đức Giêsu tiếp tục thực hiện một chuỗi những phép lạ: chữa lành bà nhạc ông Simon Phêrô và nhiều bệnh nhân khác, đồng thời xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người. Dù trải qua một ngày tất bật trong việc chữa bệnh và trừ quỷ, nhưng Đức Giêsu vẫn dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh Marcô ghi rõ: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện (c.35). Chính Đức Giêsu đã dùng phương thức sống “hoạt động và cầu nguyện” này để đi trọn hành trình cứu độ mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài. Là môn đệ Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Đức Giêsu đã đi qua việc hết mình phục vụ anh chị em, nhưng đồng thời vẫn giữ trọn mối tương giao thân tình với Thiên Chúa.

1. Hoạt động—Chúa chạnh lòng thương dân Ngài

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô miêu tả thật sống động hình ảnh một Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đến để phục vụ, để chia sẻ và đem lại sự sống đích thực và sung mãn cho con người. Nơi Đức Giêsu, một “Thiên Chúa chạnh lòng thương” đang hiện diện giữa dân Người. Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10, 38).

Mở đầu cho đoạn Tin Mừng hôm nay là việc Giêsu chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (c.30). Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cách Đức Giêsu chữa bệnh thật đơn giản, và thân tình. Với cử chỉ “cầm tay và nâng dậy,” Đức Giêsu đã truyền sức sống Thiên Chúa cho bà và Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà nâng bà dậy. Ngài đã khôi phục lại nơi bà những gì mà “cơn sốt” lấy đi, để bà tiếp tục phục vụ Chúa và anh chị em trong công việc thường ngày.

Sự “chạnh lòng thương” của Đức Giêsu không dừng lại nơi “bà mẹ vợ ông Simon,” nhưng còn trải rộng đến tất cả những ai đang cần đến Ngài. Thật vậy, “chiều đến, khi mặt trời đã lặn,” người ta mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám… Chúa đón nhận hết, và chữa lành tất cả. Chính cuộc sống và hoạt động của Đức Giêsu đã minh chứng sứ mạng của Ngài, được công bố nơi Tin Mừng Thánh Gioan: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Suy niệm đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đưa tay ra để Ngài “cầm và nâng” chúng ta dậy khi gặp thử thách trong đức tin, trong đời sống cộng đoàn, và trong khi đương đầu với những căn bệnh về thể lý. Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi; cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô! Để khi được Chúa chữa lành, được Chúa nâng dậy, chúng ta sống cho đúng với căn tính và phẩm giá của mình là những người đã được Chúa phục hồi và chữa lành. Để sau khi được chữa lành, chúng ta biết trỗi dậy và hăng hái phục vụ anh chị em mình như mẹ vợ ông Simon. Được Chúa chữa lành, là được Chúa tăng sức để hội nhập lại với đời sống cộng đoàn, và cùng chung tay xây dựng để cộng đoàn chúng ta trở thành dấu chỉ của Nước Trời giữa trần gian.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một tiếng chuông gióng lên thức tỉnh người Kitô hữu và đặc biệt người tu sĩ, trước căn bệnh “vô cảm” của thời đại. Như chúng ta đã biết, thời gian gần đây các trang mạng đều đề cập đến một căn bệnh của thời đại, đó là bệnh vô cảm. Vào lúc 5 giờ 30 phút chiều ngày 13 tháng 10 vừa qua, tại huyện Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc xảy ra một sự việc đau lòng khiến toàn thế giới nhìn vào đều rùng mình và phẫn nộ. Đó là sự vô cảm của 18 con người dửng dưng trước sự quằn quại trên vũng máu của bé Duyệt Duyệt (Yue Yue) 2 tuổi, bị 2 chiếc xe tải cán qua. Rồi tiếp đến ngày 3-11-2011, chàng thanh niên có nick name là kẹo mút chơi bời đã khoe “chiến tích” tông xe làm chết người của mình với những từ ngữ đùa cợt phản cảm mang “máu lạnh” trên mạng Facebook, đã làm dấy lên làn sóng giận dữ kết án của dân cư mạng. Và mới đây, hôm 23-11-2011, dân cư mạng lại xôn xao bàn tán về câu chuyện cô gái lái xe buýt bị hãm hiếp trước sự bàng quan của hầu hết những người khách trên xe, duy chỉ có một người lên tiếng chống đối hành vi đồi bại của ba tên yêu xanh… Trước những sự kiện đau lòng này, người tu sĩ chúng ta phải làm gỉ?

Ước mong Lời Chúa hôm nay giúp chữa lành căn bệnh “vô cảm” của chúng ta và của con người thời đại này. Xin Chúa giúp chúng ta biết “chạnh lòng thương,” biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra chung quanh chúng ta, đồng thời cho chúng ta sức mạnh để quyết tâm đứng lên hành động theo sự thúc đẩy của tình thương Thiên Chúa.

2. Cầu nguyện

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (c.35). Mặc dù bận rộn với việc chữa bệnh, trừ quỷ, giảng dạy… nhưng Đức Giêsu vẫn không quên dành giờ để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa Cha. Dù không ai gần Chúa Cha, không ai biết Chúa Cha bằng Đức Giêsu, nhưng Ngài vẫn cần gặp Chúa Cha mỗi ngày, mỗi lúc.

Thật vậy, cầu nguyện được coi là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của Đức Giêsu. Ngài cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc: Trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng, Ngài đã dành 40 đêm ngày để cầu nguyện (Mc 1,12-13); trước khi chọn 12 Tông đồ, Ngài cầu nguyện thâu đêm (Lc 6,12); và ở đây, trước khi khởi sự một ngày mới, Ngài cũng tìm đến Chúa Cha để cầu nguyện. Ngài tìm Cha để tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của nhân loại, về cuộc chiến chống lại sự dữ–chống lại Satan. Trong thân phận con người, Đức Giêsu thấy mình cần được Chúa Cha nâng đỡ, cảm thông, và tăng lực để làm tròn sứ mạng. Chính cầu nguyện đã đưa Đức Giêsu kết hiệp với Cha, lãnh nhận sức sống, và quyền năng nơi Cha để phục vụ con người tốt hơn.

Như Đức Giêsu cần gặp Cha như thế nào, thì chúng ta—những môn đệ ngày nay cũng cần gặp Chúa Cha như vậy. Là người được Chúa Cha tuyển chọn để làm chứng nhân Tin Mừng, chúng ta được sai đi đến với mọi người, để chia sẻ cuộc sống, để phục vụ và đem bình an và niềm vui của Chúa đến cho họ. Nhưng việc loan báo Tin mừng, việc phục vụ anh chị em của chúng ta chỉ đem lại hoa trái đích thực và vĩnh cửu, khi chúng ta biết gắn kết với Chúa—Nguồn mạch Tình Yêu và Sự Sống, như Đức Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5).

Như thế, đối với người môn đệ Đức Kitô, cầu nguyện chính là lẽ sống, là nguồn mạch, là sức mạnh cho lời rao giảng, cho sứ mạng tông đồ, vì chỉ có cầu nguyện mới làm cho ta trở nên môn đệ đích thực trước mặt Thiên Chúa. Trong ngày tĩnh tâm này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy rút lui khỏi ngững bận rộn thường ngày, để dành những giờ phút thật riêng tâm giao với Chúa. Chính đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết vừa dấn thân hết mình phục vụ nhu cầu của anh chị em, nhạy cảm trước những nỗi đau của họ, đồng thời luôn giữ trọn mối liên lạc thân tình với Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết trân quý những giây phút cầu nguyện, những thời khắc được dành riêng cho cuộc trao đổi thân tình giữa con và Chúa, để con có đủ sức mạnh phục vụ anh chị em con mỗi ngày tốt hơn. Amen.

III. CÂU HỎI THẢO LUẬN CỘNG ĐOÀN

Duyệt quyết tâm tháng 1.2012.

Noi gương Chúa Giêsu, chị và cộng đoàn của chị đã “chạnh lòng thương” trước những người đang cần sự giúp đỡ của chị và cộng đoàn như thế nào? Chị có cảm thấy thấy bị quấy rầy trước những nhu cầu cấp bách của chị em trong cộng đoàn và của những người chung quanh không? Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta phải làm gì để có quân bình trong đời sống cầu nguyện và hoạt động như Đức Giêsu mong ước?

home Mục lục Lưu trữ