Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1378760

TUẦN LỄ MANG LẠI ƠN CỨU ĐỘ

TUẦN LỄ MANG LẠI ƠN CỨU ĐỘ- Lm. Trần Bình Trọng

Cùng với Giáo Hội, hôm nay người tín hữu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh bắt đầu từ Chúa nhật Thương Khó đến Chúa nhật Phục sinh, là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ. Đó là tuần lễ ghi lại nhiều biến cố nhất trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Trong Tuần thánh, Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu độ mà Chúa Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày Lễ Lá, đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.

Chúa Nhật Thương Khó, ta được nghe và suy niệm Bài Thương khó của Chúa (Mc 14:1-15:47) khiến ta cảm động, khóc thương Chúa. Đi ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa, không phải để nghe ai ngắm giọng Bắc, ai giọng Trung, ai giọng Nam, ai ngâm cung triều, ai ngâm cung dòng. Việc suy niệm về cuộc khải hoàn của Chúa vào thành Giêrusalem, về cuộc khổ nạn trong vườn câu dầu, về cuộc khổ hình thập giá, về cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, chỉ mang lại ý nghĩa, nếu ta biết đem ra áp dụng vào đời sống.

Phúc Âm Thứ Hai Tuần thánh kể lại câu chuyện Chúa đến dùng bữa tại nhà ba chị em Marta, Maria và Lazarô. Giuđa phản đối việc Maria làm khi bà đem một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng mà xức chân Chúa, rồi lấy tóc mà lau (Ga 1:3). Giu-đa nại cớ để dành tiền cho người nghèo, nhưng thực sự Giu-đa không quan tâm gì đến người nghèo (Ga 1:4-5). Việc Maria làm Chúa bảo cứ để bà làm công việc ám chỉ về ngày táng xác Chúa. Hôm nay là thời giờ giúp ta suy niệm cái kinh nghiệm sống đức tin của mỗi người, để tìm ra những yếu điểm của mình và để xem ta có sống trung thực với lòng mình không?

Phúc Âm Thứ Ba Tuần thánh tiên đoán cái tội bán Thày của Giuđa và cái tội chối Thày của Phêrô. Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa, có lúc giống Phêrô. Ta giống Giuđa khi ta khước từ ơn Chúa, rồi đóng thêm đinh vào mình Chúa bằng cách sa phạm tội. Ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, không dám tỏ ra mình là người công giáo.

Phúc Âm Thứ Tư Tuần thánh nêu đích danh Giuđa là người sẽ nộp Chúa và cảnh cáo về cái hậu quả trầm luân của kẻ nộp Chúa khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ ấy đừng sinh ra thì hơn (Mt 26:24). Tuy nhiên Giuđa vẫn một mực theo đuổi tội phản bội. Ta thấy tội của Giuđa và tội của Phêrô không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên lòng thống hối của Phêrô – ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75) – tạo ra một trời khác biệt.

Thứ Năm Tuần thánh kỷ niệm việc Chúa rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học khiêm tốn. Chúa còn bảo các tông đồ rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Hôm nay Chúa còn thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Và để tiếp tục Bí Tích Thánh Thể, Chúa còn lập Chức linh mục. Như vậy ta thấy Bí Tích Thánh Thể và Chức linh mục đi liền với nhau vì không thể có Bí Tích Thánh thể nếu không có linh mục.

Thứ Sáu Tuần thánh kỷ niệm cuộc tử nạn của Chúa trên thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Hôm nay là ngày ăn chay kiêng thịt. Chúa đã chết cho tội lỗi loài người. Còn ta có cùng với Chúa chết đi cho tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu không?

Vẻ trầm lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh giúp ta tiếp tục suy niệm về cuộc tử nạn của Chúa và mong được sống lại về phần linh hồn cùng với Chúa sống lại vào CHÚA NHẬT PHỤC SINH.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

CON ĐƯỜNG CHÚA ĐI – Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Tuần thánh là thời gian hết sức đặc biệt và linh thiêng nhất trong năm Phụng vụ. Tuần thánh bắt đầu từ ngày hôm nay bằng việc cử hành Lễ Lá, kỷ niệm việc Chúa Giêsu đi vào thành Giêrusalem. Trong bối cảnh ngày hôm ấy, dân chúng đông đảo tung hô Ngài là Đấng Mêsia Con vua Đavit. Họ tỏ lòng ngưỡng mộ đến nỗi trải áo ra và lấy những cành vạn tuế lót đường cho Chúa đi qua, rồi đồng thanh tung hô: “Vạn tuế con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9).

Bước vào tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta dành nhiều thời giờ trong thinh lặng suy niệm cuộc thương khó Chúa, để hiểu rằng: nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, và yêu mến tôi (Gl 2,20). Đồng thời khi suy niệm như thế, sẽ giúp chúng ta thấu cảm được những nỗi niềm đau thương của Chúa hơn.

Đầu tiên là ba môn đệ thân tín nhất nơi vườn Giếtsêmani, đã ngủ say đến độ bỏ rơi Chúa một mình trong cô đơn. Giuđa cả lòng dám dùng nụ hôn là dấu chỉ tình yêu để trở thành nụ hôn phản bội trao nộp Thầy. Phêrô nhát đảm đến nỗi chối Thầy ba lần. Các môn đệ khác thì sợ hãi bỏ Thầy mà trốn đi hết.

Các thượng tế và luật sĩ đã vu khống cho Chúa những tội mà Chúa không hề có để trao nộp Chúa cho quan Philatô xét xử.

Philatô đã biết rõ ông Giêsu này vô tội mà vì sợ mất lòng dân chúng nên đành trao Chúa cho quân dữ đánh đòn và hành hạ Chúa cho đến chết.

Còn dân chúng thì mau thay lòng đổi dạ. Ngày hôm trước khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ dùng những cành vạn tuế tung hô Chúa, nhưng hôm sau họ biến thành những ngọn roi đánh trên thân mình Chúa.

Những cành cây những bông hoa hôm trước trải đường cho Chúa đi qua, nhưng hôm sau họ làm thành mão gai đội trên đầu Chúa. Những lời tung hô xưng tụng sẽ được thay thế bằng những lời đả đảo sỉ nhục, thách thức và kết án: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23,21).

Ôi thương thay! Dung mạo Chúa rạng ngời sáng láng trong lần biến hình nay bị con người khạc nhổ, sỉ vã và nhục mạ. Đôi mắt quan tâm với ánh nhìn bao dung tha thứ nay bị lý hình bịt lại  làm thành một trò chơi như trẻ con.

Tấm thân Chúa gánh lấy bao nỗi khổ đau của nhân loại, giờ đây được phơi ra gánh lấy những trận mưa đòn. Đôi bàn tay đã đưa ta chữa bệnh và nâng đỡ biết bao người, nay phải dang ra dín chặt vào thập giá cho chúng đóng đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường rao giảng Tin mừng, nay không thể nâng cả thân mình đang trĩu nặng vì kiệt sức.

 Dân chúng đồng thanh đòi đóng đinh Chúa. Họ coi Chúa còn thua Baraba tên trộm cướp. Chúa Giêsu đã đi đến tột cùng của bao cực hình khi Ngài cảm thấy dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ: “Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài bỏ tôi?” (Mc 15, 34).

Ước gì mỗi lần suy ngắm cuộc thương khó Chúa, xin Chúa ban cho chúng ta ơn hoán cải nội tâm và cố gắng bước theo con đường Chúa đã đi.

Đường vào thành Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang, mọi người đều chung lối bước, nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp không mấy người đi theo Chúa

 Đường vào Giêrusalem đông vui mọi người ca hát tưng bừng, nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có những lời nhiếc mắng chửi rủa.

 Đường vào Giêrusalem Chúa ngồi trên lưng con lừa, nhưng đường lên Núi Sọ Thập giá ở trên lưng Chúa.

Đường vào Giêrusalem dân chúng tung hô Chúa là Đấng Mêsia, họ sẵn sàng trải áo cho Chúa đi qua, nhưng đường Núi Sọ khi Chúa vác thánh giá té ngã nhiều lần, mà chỉ có một người duy nhất đứng ta vác đỡ thánh giá cho Chúa.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã vượt qua muôn ngàn đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một kiếp người rồi tiến tới vinh quang. Như thế, Chúa muốn dạy chúng ta rằng “Muốn được vinh quang với Chúa chúng ta cũng phải trải qua đau khổ “. Thật vậy, nếu không có ngày thứ sáu chịu nhục nhã đau thương, thì chắc chắn không có ngày phục sinh vinh hiển.

Thế thì, là những người con Chúa, nhưng thử hỏi chúng ta đã bước theo Chúa trên con đường nào? Đường vào Giêrusalem hay đường lên núi Sọ? Nếu chúng ta dõi bước theo chân Chúa mỗi ngày, đồng cảm với sứ vụ của Chúa, thì mọi việc làm chúng ta sẽ sinh công ích, mọi đau khổ của chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, như thế ngày mai đây hi vọng sẽ được Chúa cho vinh quang với Chúa trên Nước trời. Amen.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

TẠI LÀM SAO CHÚA CHẾT?- Lm Antôn Nguyễn văn Độ

Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc : một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?

Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.

Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14, 1) ; “tìm chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14, 55), chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu : “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14, 61). Chúa Giêsu đáp: “Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây” (Mc 14, 61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án : “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” (Mc 14, 62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14, 64).

Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15, 1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.

Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi : “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp : “ Ông nói đúng” (Mt 15, 2). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.

Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15, 9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?” (Mc 15, 12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập giá” (Mc 15, 15).

Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu  thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).

Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.

Như vậy, đối với câu hỏi, “ tại sao Chúa chết ? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.

Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.

Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).

Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.

Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

ĐẤNG GÁNH TỘI TRẦN GIAN- Trích Logos B   

Thành ngữ Việt Nam có câu : “Nợ như chúa chổm”. Câu thành ngữ này ám chỉ những kẻ nợ nần “ngập đầu ngập cổ”. Thành ngữ xuất phát từ câu chuyện dã sử sau đây :

Ngày xưa, vào thời nhà Lê, có một vị quan lớn trong triều tên Mạc Đăng Dung âm mưu làm phản và cướp ngôi vua. Vua Lê bị Mạc Đăng Dung bắt giam vào ngục.

Trong thời gian bị giam cầm, nhà vua quen với một cô hàng rượu thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục. Nàng thường chuốc rượu cho lính canh say mềm rồi vào thăm vua. Dần dần giữa hai người nảy nở một mối tình thắm thiết, đến nỗi một ngày kia cô hàng rượu có thai.

Vì biết mình không thể thoát khỏi bàn tay tàn bạo của họ Mạc, vua trao ấn ngọc lại cho cô nàng bán rượu, để sau này nàng sinh con trai thì nó sẽ phục thù cho cha. Quả thật, sau đó nhà vua và cả hoàng tộc bị Mạc Đăng Dung giết chết.

Sau đó, cô hàng rượu sinh được một con trai đặt tên là Chổm. Chổm lớn lên rất thông minh sáng sủa, được mọi người quý mến, nên sinh tật ăn nhậu, đến nỗi nợ nần rất nhiều người.

Trong thời gian đó, có một vị quan phò vua Lê là Nguyễn Kim nổi lên chống Mạc Đăng Dung. Biết rõ thân phận của Chổm nên Nguyễn Kim gọi chàng đến giao nhiệm vụ đem quân đánh họ Mạc.

Quân của Chổm chiến thắng vẻ vang. Chổm được tôn lên làm chúa và được dân chúng gọi là “Chúa Chổm”. Nhưng cũng vào lúc ấy, các con nợ tuốn đến đòi nợ Chúa Chổm. Chúa Chổm phải mở kho bạc để trả cho xong những món nợ thuở hàn vi.

Từ đó những kẻ mắc nợ nhiều được dân gian gọi là “nợ như chúa chổm”. (Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam).

Chúa Chổm là kẻ mắc nợ, nhưng Vua Giêsu, một vị Vua đã mang trên vai mình “món nợ” tội lụy to lớn của nhân loại. Ngài đã trả nợ thay cho nhân loại. Ngài chính là vị Vua “gánh tội trần gian” (Ga 1, 29).

Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, chúng ta bước vào tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ : đó là Tuần Thánh. Hôm nay, Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành Giêrusalem như một vị Vua. Thật ra, Ngài chính là vị Vua hiền lành và khiêm tốn, Đấng đã đến để “gánh tội trần gian”.

Vị Vua hiền lành và khiêm tốn

Phụng vụ hôm nay dẫn đưa chúng ta đến việc tưởng niệm Chúa Giêsu tiến vào thành Thánh Giêrusalem trên lưng một con lừa. Hình ảnh vừa độc đáo vừa đáng ghi nhớ ấy nhắc nhở dân Do Thái: Ngài là Đấng Mêsia mà dân Chúa hằng mong đợi (Dcr 9, 9-10). Ngài đến một cách khiêm nhu trên lưng một con lừa.

Tuy nhiên, hình ảnh Chúa Giêsu ngồi trên lưng con lừa cũng còn gợi lên hình ảnh Salomon ngồi trên lưng con la cái để đi đến nơi được phong vương. Như thế, hình ảnh Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa tiến vào thành Giêrusalem cũng làm sáng lên hình ảnh vương giả của Ngài. Chúa Giêsu được dân chúng chặt cành lá rải lối đi, trải áo xuống đường để đón tiếp và tung hô như một “vị vua”.

Thật lạ lùng, Chúa Giêsu, một vị Vua cao cả, đã vào thành không phải trên lưng con ngựa chiến, với vó ngựa dập dồn, bụi bay mịt mù, với đoàn quân hộ tống và cờ xí rợp trời. Trái lại, Ngài ngồi trên lưng một con lừa con mượn của người khác. Thật là một vị Vua khiêm tốn và hiền lành !

Có một chi tiết đáng cho chúng ta chú ý : đó là Chúa Giêsu cỡi con lừa con “chưa ai cỡi bao giờ”. Chi tiết này, làm nổi bật tư cách linh thánh của Đấng ngồi trên lưng lừa. Ngài chính là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, như lời tung hô của dân chúng.

Vậy, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là hành vi Chúa long trọng tiến vào Thành Thánh trong tư cách là Vua dân Do Thái, cho dù Ngài không phải làm Vua để thống trị, nhưng làm Vua để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.

Khi chứng tỏ vương quyền của Đấng Mêsia qua hình ảnh của một vị Vua hiền lành và khiêm tốn, Chúa Giêsu còn muốn loan báo Ngài chính là vị Vua sẵn sàng chết thay cho nhân loại qua cuộc thương khó của Ngài.

Vị Vua gánh tội trần gian

Bài Thương Khó Chúa Giêsu theo thánh Marcô hôm nay nhiều lần nhắc đến hình ảnh Chúa Giêsu là “Vua”.

–  Khi Chúa Giêsu bị điệu đến dinh tổng trấn Philatô, ông ta đã hỏi Ngài : “Ông có phải là Vua dân Do Thái không ?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ông nói đúng !”. Chúa Giêsu đã xác nhận vương quyền của Ngài và chứng tỏ Ngài là Vua. Nhưng đó là một vị Vua với hai tay bị trói chặt sau lưng, khuôn mặt đầm đìa máu và thân thể nát tan. Ngài muốn cho mọi người thấy : Ngài chính là vị Vua “gánh tội trần gian”.

– Quan tổng trấn Philatô dẫn Chúa Giêsu ra trước dân Do Thái và hỏi : “Các ngươi muốn ta làm gì cho Vua dân Do Thái ?”. Dân chúng la to : “Đóng đinh nó đi ! Đóng đinh nó đi !”. Lời tung hô khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem đã thay thế bằng những lời kết án đóng đinh Ngài vào thập giá.

– Quân lính mặc áo choàng đỏ cho Chúa Giêsu, quấn một vòng gai đặt trên đầu Ngài, rồi nhạo báng : “Tâu Vua dân Do Thái”. Chiếc áo choàng tầm thường thay cho áo cẩm bào, vòng gai nhọn thay cho vương miện uy quyền. Tất cả đều cho thấy dung mạo của một vị Vua đau khổ, vị Vua sẵn sàng chết thay cho mọi người.

– Quân lính điệu Chúa Giêsu đi đóng đinh vào thập giá với bản án ghi trên đầu : “Vua dân Do Thái”. Quả thật, đó chính là phút giây Chúa Giêsu nhục nhã nhất. Ngài đã bị treo trên thập giá như một tử tội xấu xa. Chính vào lúc đó, Ngài được gọi là Vua, một vị Vua hoàn toàn thất bại và thua cuộc. Nhưng trong chính sự ô nhục nhất, thập giá đã nở hoa cứu độ. Trong chính sự thất vọng ê chề, Ngài đã trở thành niềm vui ơn cứu độ.

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hà Lan, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Bức tranh diễn tả Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Dưới chân thập giá là một đám đông, mà gương mặt người nào cũng biểu lộ sự hận thù ghen ghét.

Thế nhưng, khi tiến lại gần bức tranh và nhìn kỹ, người ta khám phá thấy một khuôn mặt gần như mất hút trong bóng tối, một khuôn mặt dường như chứa đầy sự đau khổ. Các nhà chuyên môn phỏng đoán đó là khuôn mặt của chính tác giả.

Khi vẽ khuôn mặt mình ở đó, họa sĩ Rembrandt muốn thú nhận rằng : ông là một người trong đám đông kia và chính tội lỗi của ông cũng góp phần vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá.

Hôm nay, chúng ta cũng đang nhìn vào bức tranh toàn cảnh của cuộc thương khó Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám đông dưới chân cây thập giá cũng có chúng ta. Khi phạm tội, chúng ta cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.

Chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh. Chớ gì chúng ta cũng biết thông phần vào sự đau khổ của Chúa và nhận ra được giá trị cao cả của sự thương khó Chúa đã chịu vì yêu thương và để cứu chuộc chúng ta.


CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

THÔNG PHẦN ĐAU KHỔ VỚI CHÚA TRÊN THẬP GIÁ- Lm. Thái Nguyên

“Eli! Eli! Lamma sabacthani?” (Mt 27, 46)

Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.

Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm được cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Qua đó, ta cũng hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá của đời mình và của mọi người, đồng thời khám phá ra ý hướng và cách thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.

Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt cháy tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.

Chúa Giêsu bị bỏ rơi.

Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15, 34; Mt 27, 46). Sau khi chịu những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con người, Chúa Giêsu cảm thấy bị bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi bằng Abba.

“Eli! Eli! Lamma sabacthani?”. Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là Thiên Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn: bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính Thiên Chúa chối từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: “Đó là tình trạng bỏ rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống trần thế của Ngài… Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên hư không”.

Chúa Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề nhất mà cuộc đời có thể mang lại. Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi thì Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến tội. Chính lúc trải qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên Chúa, Ngài mới trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây ra. Trong giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì “Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5, 21). Đó là ý nghĩa việc Chúa chịu đóng đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53, 12). Thánh sử Luca cho biết lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc 22, 37).

“Vị xứng kỳ đức”: người công chính mà còn bị như thế thì sống đạo đức có ý nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu những bất công, Ngài phải chịu đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử tệ bạc nhất của con người dành cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội lỗi gây nên đau đớn vô vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.

Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu rằng, khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời mình, thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?

Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp, Chúa Giêsu đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng người nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển hiện ít nhiều một cách nào đó trong lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả bi thảm của nó thật khôn lường:

– Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời đáng nôn mửa” (Jean Paul Sartre).

– Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con người trở nên nghi ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với Thiên Chúa thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.

– Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình.

Quả thật, tiếng than thở của Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người. Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở rộng trước mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh nghiệm nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:

” Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù lòa.

Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách Chúa Cha.

Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên “dốt nát”.

Để chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành người “tội lỗi”.

Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng.

Để Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm tình trạng bị bỏ rơi.

Để chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm nghiệm hỏa ngục.”

Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta sống những biến cố đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy Chúa, dù có những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức lực hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.

– Người chiến thắng là người tin rằng Thiên Chúa vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên Chúa hoàn toàn vắng bóng.

– Kẻ chiến thắng là kẻ trải qua những kinh nghiệm cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm trong vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.

Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống cách trọn vẹn khi thốt lên: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng chính là sự sống của mỗi người chúng ta. Rồi “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19, 30).

Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm đà: Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong sự sống của Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.

Chúa Giêsu hoàn tất mọi sự

Sau cùng, trên Thập giá, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí mọi người và nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó, nhưng cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ “tetelestai”, đó là tiếng reo vui của một người chiến thắng sau trận chiến đấu; là tiếng hân hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao gian khổ; là tiếng ca vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng. Tiếng kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như một người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài.

Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: ” Chính trong lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất…Công trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa bằng ơn thánh” [1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại dự kiện chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà thôi.

Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.

Thập giá trong đời sống của chúng ta

Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, cho chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ rơi, cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha đau khổ trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội lỗi gây nên. Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ tình yêu vô biên nơi Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài.

Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất thực tế, kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất với Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ của chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và mọi tội lỗi được cứu chuộc.

Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng dáng đau khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không xua đuổi và tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng ta đón nhận Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu thương những gì Thiên Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như vậy, tình trạng tâm hồn mới thật sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình yêu, để lại một sức sống mới mà Chúa muốn làm nên.

Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời sống bản thân ta và tha nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ cũng chỉ vì những điều tốt đẹp có thể phát xuất từ chính những đau khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Ngài, và là một cách Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình cứu độ của Ngài. Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa thì đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm triển nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận đau khổ nên ta mới thật sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc dĩ, thì trái ngang và oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu mến Chúa, đời sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.

” Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới bước vào sức năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và sung mãn hơn của Thiên Chúa”. [2]

Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta, cho dù ta bị đối xử một cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt trái của một tình yêu không được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến khác đi theo hướng tích cực của nó. Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một con người mang khuôn mặt và tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với Đức Giêsu trên Thập giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Chính trong ý hướng đó mà ta có thể kết hiệp mọi đau khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu độ.

Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn, là Thập giá còn. Con người không thể coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh theo cách thức của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù, nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là Thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho người mình yêu.

Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.

Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr 1, 5).

Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ đến muôn đời. Amen.

—————————-

[1] Gioan Thánh Giá, Salita del Monte Carmelo, in: Opere, Roma, 1979, pp. 92-93.

[2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr. 152.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

VẠN PHÚC ĐẤNG NGỰ ĐẾN NHÂN DANH CHÚA-  Lm. FX Phạm Đức Trị

Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng… Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?

Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: “Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?” Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..

Phía trên đầu Người có bản bản án viết “Đây là Vua dân Do thái”. Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa… nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu.

Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B

THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN HÒA-  Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.

“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?” (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.

Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.

Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).

Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!

Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu – tu sĩ – linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.

home Mục lục Lưu trữ