Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 26
Tổng truy cập: 1379127
TUÂN THEO THIÊN Ý, CHÌA KHÓA HẠNH PHÚC
TUÂN THEO THIÊN Ý, CHÌA KHÓA HẠNH PHÚC- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5:5b).“Hạnh phúc là nỗi khao khát triền miên có mặt trong từng hành động của con người.” Một nhà tư tưởng đã nói như thế. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng nhận rằng dường như lúc nào khổ đau cũng nhiều hơn hạnh phúc. Nước mắt khi nào cũng đầy hơn tiếng cười. Tại sao vậy?
Tại sao đi tìm hạnh phúc mà cứ như đi bắt cái bóng, còn sự hiện hữu đích thật của hạnh phúc thì vẫn trốn ở nơi nào? Tại sao bao nhiêu người “thương” nhau lắm, những bất đồng thế nào cũng không màng, cha mẹ đôi bên có phản đối can ngăn cũng không xong? Họ cứ lấy nhau… Ấy thế mà, khi được vài mặt con, có người thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chẳng có chút tình yêu nào với người ấy cả.”
Tại sao có người tu đã bao năm, tưởng rằng đắc đạo lắm, thế mà cũng có khi cởi áo nhảy rào? Phải chăng không có hạnh phúc thật trên cõi đời này? Hay vì “đời là bể khổ” nên đụng đâu cũng khổ sầu và nước mắt?
Thiết tưởng một câu trả lời đúng cho những câu “tại sao” trên đây sẽ là: vì con người đi tìm hạnh phúc nhưng cứ lẫn lộn mù mờ giữa những gì là tương đối với tuyệt đối, phương tiện với đích cùng, hữu hạn và vô hạn.
Có người đã nhận xét: “Sống trên đời, ai lại không cần tiền”. Thế nhưng khi hỏi tiền là phương tiện hay cùng đích thì ai cũng bảo tiền là phương tiện. Ấy vậy mà trong thực tế, biết bao người đã lấy tiền làm mục tiêu sống và giá trị trên mọi thứ giá trị, nên đã bất chấp nhân phẩm, luân lý, tình người, và những liên hệ thiêng liêng cao quí, miễn sao có tiền là được. Bao nhiêu quan hệ vợ chồng, cha mẹ, anh em bị sụp đỗ tan nát cũng vì người ta nhìn tiền là cùng đích chứ không phải phương tiện, tuyệt đối chứ không phải tương đối. Thế nên khổ đau và nước mắt là ở chỗ đó.
Một câu trả lời khác khả dĩ giải đáp cho các câu hỏi “tại sao” trên đây và giúp con người tìm được bình an cùng niềm vui sống sẽ là: vì người ta cứ chạy theo ý mình mà không hề nhận biết và vâng theo ý Chúa. Nếu như có ai đó có lòng kết hợp mật thiết với Thánh ý Thiên Chúa, thì chắc chắn, dù gặp bao nghịch cảnh gian nan trước mắt thế gian, họ vẫn là người bình an và hạnh phúc hơn thế gian suy tưởng.
Trong Thánh Kinh Cựu ước có hình ảnh nào khốn nạn và đau khổ như ông Gióp. Một người công chính, đang sống đời hạnh phúc giàu sang, thình lình đau thương ập xuống. Gia đình đang an lành, bỗng dưng thiên tai từ sa mạc thổi vào làm đổ tan nhà cửa. Con cái bị giết chết. Cơ nghiệp bị cướp sạch. Chính thân thể ông Gióp cũng bị lở loét, giòi bọ rúc rỉa. Đói khát hành hạ thường xuyên.
Trước cảnh sầu đau như thế, Gióp còn bị kẻ này người kia mỉa mai khinh bỉ, cho là bị trời phạt. Chính vợ ông cũng đay nghiến suốt ngày, xúi Gióp chửi Thiên Chúa. Gióp đã có lần than thở: “Ôi, đời người có khác chi cảnh tôi tớ, kiếp sống như kẻ làm thuê. Tôi tớ thì khát khao chút bóng mát để nghỉ ngơi; kẻ làm thuê thì trông mong giờ lãnh tiền công. Ấy thế mà thân tôi chẳng bao giờ được trả công, nghỉ ngơi một chút cũng không được. Bởi vì vừa nằm xuống thì tâm hồn sầu buồn mong cho trời mau sáng. Đến khi trời sáng thì thấy ngày đời trôi nhanh như con thoi” (G 7:1-6).
Trước cảnh khốn đốn tận cùng, dường như không còn chút hy vọng nào cho cuộc sống, Gióp vẫn một niềm kiên cường thốt lên: “Chúa đã cho, Chúa đã lấy đi. Ý Chúa muốn làm sao, thì nên như vậy. Xin chúc tụng danh Chúa” (G 1:21).
Thật lạ lùng! Giữa chốn âm u bão bùng mà vẫn nhắm ý Chúa thẳng tiến.
Kết quả, vì biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa mà cuối cùng Gióp đã tìm lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc đời.
Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.
Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới hỏi: “Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt sắng, mà sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả lời: “Con không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều con luôn chú ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là con muốn, dù vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”
Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành, con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con cảm tạ Chúa luôn.” Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một vị thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).
Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của đường đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa không chỉ lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch lý. Không chỉ khi thành công may mắn nhưng cả lúc rủi ro thất bại ê chề.
Không phải là Thánh Phêrô đã thốt lên “Thưa Thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì ý Thầy muốn, tôi sẽ thả lưới” sao?
Các tay đánh cá chuyên nghiệp của biển hồ Giênêsarét tất biết rõ chỉ thả lưới ban đêm mới mong bắt được cá. Ít ra thì cũng phải là “lúc chạng vạng hay khi rạng đông.” Chứ đời thuở nào mặt trời đã lên cao mà còn mong bắt được cá. Đó là chưa nói đến việc Phêrô và các bạn chài đã vất vả suốt đêm, chưa được nghỉ ngơi chút nào, lại mới giặt lưới xong, bây giờ nếu thả lưới xuống, lúc kéo lên là phải giặt lại, mệt nhọc biết bao.
Vậy mà “vâng lời Thầy, con xin thả lưới.” Và kết quả của việc xin vâng là một ngày bội thu hoan hỉ: “Họ thả lưới và bắt được một mẻ cá nhiều lắm, đến nỗi lưới muốn rách. Họ ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp trên thuyền gần đó đến giúp. Những người này tới, và họ chất được hai thuyền đầy cá, đến sắp chìm” (Lc 5:6-7).
Dẫu rằng chủ đề của Lời Chúa tuần này là “Sai Đi” nhưng sống “Vâng Phục Ý Chúa” cũng không có chi là lạc đề. Bởi vì không “vâng phục” sẽ chẳng “sai đi” được. Nói đến “sai đi” là hàm ngậm một chỗ đến. Và dầu đã đến nơi phải tới, thì vai trò của người được sai vẫn là chu toàn sứ mạng. Còn không vâng phục đừng mong sứ mạng hoàn thành. Không có sứ mạng nào cao đẹp cho bằng làm đúng ý người sai mình đi. Thế nên Đấng Cứu Thế đã từng cầu nguyện: “Này con xin đến để thi hành ý Cha.” Thực thi ý Cha chính là lẽ sống của Người Con hiếu thảo quí yêu.
Thiết tưởng không có tâm tình nào ý nghĩa và sinh hoa trái nhiều hơn cho nhân gian bằng tâm tình xin vâng đó.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- NĂM C
YẾU ĐUỐI VẤP NGÃ ĐỂ KHIÊM TỐN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn sứ lớn trong Cựu ước, ta sẽ thấy các ngài luôn ý thức sự thấp hèn bất xứng của mình.
– Môisen: người chăn cừu cho nhạc phụ Yethrô. Có một lần ông lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ : Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Bị cuốn hút trong khung cảnh hùng vĩ ấy, ông chạy đến để nhìn xem. Khi ông tới gần, một tiếng nói uy nghiêm từ bụi gai tuyên phán : Chớ lại gần, cởi dép ra vì đất ngươi đang đứng là Đất Thánh. Rồi Chúa gọi Môisen nhưng ông ngại ngùng thoái thác:“Lạy Chúa, tôi là ai mà dám đối đầu với Pharaon …Từ xưa tới giờ, tôi đâu có lợi khẩu, tôi chỉ là một đứa nói cà lăm…vì thế, lạy Chúa, Chúa muốn chọn ai thì chọn, sai ai thì sai, nhưng xin tha cho tôi” ( Xh 3,11;4,13). Chúa thuyết phục Môisen “cứ yên tâm! Ta sẽ ở với ngươi, cho ngươi làm phép lạ, tài ăn nói và cho cả Aaron nói thay ngươi”. Môisen đã nhận lời nhưng vẫn run sợ sứ vụ cao cả Chúa trao.
– Isaia đã kể lại ơn gọi của mình: Trong một thị kiến đã nhìn thấy Đức Chúa trong một khung cảnh huy hoàng của Đền thờ. Các Thiên Thần tung hô “ Thánh ! Thánh ! Thánh ! Đức Chúa đạo binh là Đấng Thánh ! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa ! ”.Tôi thốt lên với tất cả nổi kinh sợ : “ Khốn cho tôi, tôi chết mất ! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh !”. Một trong các thần Xêraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than vào ấy chạm vào miệng tôi và nói : “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội”. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán ; “Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi cho chúng ta ?” Tôi thưa : “dạ con đây, xin sai con đi” (Is 6,1-8).
– Giêrêmia cũng kể về việc Chúa gọi ông: Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: “ Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho dân”. Nhưng tôi thưa : “Ôi ! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói !”. Đức Chúa phán với tôi : “Đừng nói ngươi còn trẻ ! Ta sai ngươi đi đâu ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Rồi Đức Chúa giơ tay chạm vào miệng tôi và phán : “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” ( Gr 1,4-10).
Các Ngôn sứ luôn có tâm trạng kinh hãi đến run sợ trước sứ vụ Thiên Chúa trao. Tại sao phải kinh khiếp và run sợ như vậy? Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình.Ý thức khoảng cách ấy làm cho con người ta run sợ.
Trang Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại, ngư phủ Simon run sợ, cảm nhận sự thấp hèn trước Thiên Chúa chí thánh. Thấy mẻ cá lạ lùng, Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” ( Lc 5,8). Chúa không tránh xa mà lại gần và chọn Phêrô: Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. Thế rồi: Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Từ ngày theo Chúa, cuộc đời của Phêrô có nhiều sôi nổi, có nhiều lỗi lầm, nhiều va vấp và nhiều yếu đuối. Cho đến khi xác tín ba lần: “Thưa Thầy, Thầy biết là con yêu mến Thầy”, thánh Phêrô đã viết nên một thiên anh hùng ca cho Giáo hội sơ khai, rao giảng, làm chứng và chết cho Chúa Giêsu.
Đức cha Giuse Võ Đức Minh suy niệm về ba nét đẹp của cuộc đời Thánh Phêrô, đó là người môn đệ đi theo Chúa, người môn đệ yếu đuối và vấp ngã, người môn đệ yêu mến Chúa (x.bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan thiết năm 2010).
Từ bỏ để đi theo Chúa.
Không thể đi theo Chúa nếu không có sự từ bỏ. Khoa khảo cổ bên thánh địa đã khai quật lên cơ ngơi của thánh Phêrô. Ngôi nhà lớn kế bên biển hồ Tibêria.Theo những chuyên viên về khảo cổ thì thánh Phêrô là người rất giàu có, có những đội thuyền, có gia sản, sự nghiệp và có người vợ yêu quý.
Theo Chúa nên Phêrô đã từ bỏ tất cả: gia sản, của cải, danh vọng, ngay cả tình yêu chính đáng của mình. Sự từ bỏ này đưa Phêrô tới một hồng phúc rất lớn lao đó là yêu mến Chúa Giêsu. Từ bỏ để yêu mến và đi theo Chúa.
Tất cả những ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô mới có thể trung thành đi theo Người.Chúa Giêsu bộc lộ sứ mạng của Đấng Kitô là phải lên Giêrusalem, chịu nạn, chịu chết, ngày thứ ba sống lại. Phêrô yêu mến Chúa, gắn bó với Chúa nên thủ thỉ với Thầy và tìm mọi cách can ngăn. Chúa Giêsu quay lại trước mặt anh em và mắng Phêrô: Xéo đi Satan! Chúa nói công khai. Trong đời có vị tông đồ nào bị mắng như thế chứ kể cả Giuđa bị mang tiếng là Satan. Phêrô hiểu được rằng đã là môn đệ đi theo Chúa thì không được đi trước mặt Chúa. Đây là cốt lõi của vấn đề cuộc hành trình người môn đệ. Phêrô cản Chúa nghĩa là muốn đi trước Chúa. Phêrô không thể mở đường vào ơn cứu độ. Phêrô phải đi sau lưng để Chúa đi trước. Người môn đệ đi sau Thầy của mình, người môn đệ đặt vết chân của mình vào dấu chân của Thầy, người môn đệ không lớn hơn Thầy của mình. Bài học này Phêrô thật thấm thía. Từ bỏ để yêu mến, yêu mến để đi theo. Phêrô rao truyền bài học ấy cho mọi người.
Yếu đuối vấp ngã để khiêm tốn
Theo Chúa nhưng Phêrô là môn đệ yếu đuối và vấp ngã. Thường tình khi nói về một vị thánh, người ta thường nói những điểm tốt nhất, tích cực nhất, anh hùng nhất để ca ngợi. Còn về Phêrô, nếu đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy thật lạ lùng. Phêrô có nhiều giới hạn, nhiều khuyết điểm và thậm chí rất nhiều vấp ngã.
Chúa đã chọn Phêrô ở giữa những con người tầm thường. Chúa không thay đổi sự tầm thường của Phêrô, nhưng xuyên qua sự tầm thường của Phêrô, Chúa trao ban kho tàng vô giá. Thấm thía điều đó nên sau này một người bạn của Phêrô là Phaolô đã nói: “Tôi chỉ là chiếc bình sành dễ vỡ trong khi tôi được chứa đựng kho tàng vô giá là Đức Giêsu Kitô”.
Qua những yếu đuối và vấp ngã của Phêrô, Chúa đã uốn nắn con người từng bước một. Xuyên qua những va vấp lỗi phạm của Phêrô, Chúa nâng đỡ và tha thứ cho ông. Một con người cần người khác nâng đỡ thì họ không bao giờ quá tự tin. Một con người cần lãnh nhận ơn tha thứ thì sẽ dễ dàng nói lời tha thứ với những người xung quanh, dễ cảm thông với người thất bại. Không yếu đuối, không cảm thông. Không phạm tội, không thể nào hiểu được niềm hạnh phúc của con người được tha thứ. Nói như thế không có nghĩa là nên phạm tội. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm đó. Thánh Phaolô nói rằng: “Điều phải làm tôi lại không làm, điều phải tránh tôi lại làm”.
Suy niệm về kinh nghiệm yếu đuối và vấp ngã của Phêrô để chúng ta không trở nên những quan tòa. Khi tin rằng mình vững vàng mà quên ơn Chúa thì có thể sẽ vấp ngã. Đêm tiệc ly, Chúa Giêsu nói “Đêm nay chúng con sẽ bỏ Thầy mà đi hết”. Mọi môn đệ khác im lặng lắng nghe run sợ, còn Phêrô gần như vỗ ngực để thưa với Chúa rằng: “Thà chết không bỏ Thầy, con sẵn sàng liều chết với Thầy”. Chúa nói: “Đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”. Phêrô tự phụ: “Người khác chối chứ làm sao con chối Thầy được”. Vậy mà sau đó Phêrô chối Thầy đến ba lần.Nếu không tựa vào ơn của Chúa, chúng ta sẽ vấp ngã. Nếu không có ơn Chúa, sức người không thể nào làm được. Thánh Phêrô để lại cho chúng ta bài học rất quý giá. Người môn đệ với nhiều lỗi lầm đi theo Chúa. Điều lạ lùng là Phêrô không bao giờ giận Chúa, không lúc nào bỏ Chúa mà vẫn luôn xác tín “bỏ Thầy con biết theo ai?”. Điều hết sức huyền nhiệm là Chúa lại chọn người yếu đuối vấp ngã ấy làm Tảng Đá để xây dựng Giáo hội và trao chìa khoá Nước Trời.
Yêu mến Chúa hết tâm hồn.
Thánh Phêrô là con người yếu đuối hay lầm lỗi nhưng rất chân thành và tràn đầy lòng yêu mến Thầy.Trong cuộc khổ nạn của Chúa, Thánh Phêrô đã bộc lộ sự yếu đuối và lòng mến của mình cách rõ ràng nhất. Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy đến ba lần. Phêrô chối Thầy vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết của Thầy, Phêrô rùng mình sợ hãi, tìm đường chạy trốn. Lúc bình tĩnh lại, đối diện với sự yếu đuối và vấp ngã của mình, Phêrô đã khóc lóc hối hận, nước mắt ăn năn nhạt nhoà khuôn mặt hốc hác hằn những nếp nhăn. Gà gáy lần thứ ba, Phêrô nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nở như một đứa trẻ, khóc thoả thích, khóc cho vơi hết bao sầu muộn chất chứa trong lòng.
Cuộc đời Thánh Phêrô là sự giằng co giữa yếu đuối và dũng cảm, giữa trọn vẹn và dang dở. Trái tim ngài có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Sứ vụ Tông đồ có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Chính trong sự vấp ngã vì yếu đuối, cuộc đời của Thánh Phêrô vẫn luôn có một tấm lòng yêu mến, gắn bó với Chúa.
“Tôi đi đánh cá đây, anh em hãy đi với tôi”. Lao nhọc vất vả suốt đêm mà không được gì cả. Đang lúc chán nản thì có tiếng bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền. Phêrô buông lưới và cá quá nhiều, họ kéo cá lên, thuyền gần như chìm. Khi đó, có tiếng nói của Gioan: Chúa đó. Lời ấy như nhắc bảo Phêrô, tự sức mình không đưa tới kết quả đâu. Phải có Chúa, bao lâu hình ảnh của Chúa rọi soi nơi lời nói, việc làm, đời sống của Phêrô thì bấy giờ mới có thành quả. Còn nếu Phêrô chỉ dựa trên tài sức của mình, dù lao nhọc suốt đêm không bắt được một con cá nào.
Chúa đã thu phục nhân tâm bằng yêu thương. Chúa gọi Phêrô ra một bên và hỏi: Con có mến Thầy không? Lần thứ nhất Phêrô trả lời: Lạy Chúa, có. Lần thứ hai ông nói: Lạy Chúa, có. Lần thứ ba Chúa hỏi thì Phêrô buồn vì Chúa hỏi cùng một câu hỏi đến ba lần. Nhưng Phêrô xác tín : Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Và Chúa nói : Hãy chăm sóc đoàn chiên. Giống như Đức Maria thưa : Này tôi là tôi tớ Chúa ; Phêrô nói: Con chỉ là vật mọn phàm hèn trước mặt Chúa mà thôi. Chính khi đó, Chúa Giêsu mới trao cả Hội Thánh cho Phêrô. Con biết con là ai thì con có thể chăm sóc Hội Thánh; bởi vì con đang làm công việc Thiên Chúa ủy thác và tin tưởng con. Con đang làm việc của Chúa !
Nhìn cuộc đời Thánh Phêrô ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim ông lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo ông là Satan, ông cũng không giận Chúa. Ngay khi vì sợ hãi mà chối Chúa thì ông vẫn yêu mến Chúa. Không phải vì Phêrô yếu đuối hay tội lỗi mà Chúa bỏ ông. Tình yêu chân thành trong tâm hồn ông làm Chúa giữ ông lại và đặt làm lãnh đạo đoàn chiên của Chúa.Vị Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh có một dung mạo là người môn đệ đi theo Chúa, người môn đệ yếu đuối và vấp ngã, nhưng đã đứng dậy, không chán nản, không để mất phương hướng, không đầu hàng, không bỏ cuộc; người môn đệ sống bởi ơn Chúa, chan hòa ân sủng, bình an, niềm vui của Chúa. Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là tông đồ Phêrô, hay đúng hơn là trên đức Tin vào Chúa Giêsu là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16; 1Cr 3,10). Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để trở thành viên đá sống động xây nên tòa nhà Hội Thánh (x.1Cr 3,16-17), hay nên Đền Thờ của Thiên Chúa, có nền móng là các Tông Đồ và Ngôn Sứ, và Đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa tin tưởng và trao trách nhiệm cho người từ bỏ đi theo Chúa, hiểu biết Chúa, yêu mến Chúa và đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Chúng con sẽ được Chúa tin tưởng và trao sứ mệnh xây dựng Hội Thánh, nếu chúng con có lòng tin, lòng cậy và lòng mến Chúa cho dù chúng con yếu đuối hay vấp ngã. Xin Chúa cho chúng con có một đức tin vững chắc, một lòng cậy trông tín thác và một lòng mến chân thành như Thánh Phêrô để chúng con có thể trở thành một viên đá sống động,góp phần xây nên tòa nhà Hội Thánh. Khi yêu mến Chúa, chúng con sẽ làm mọi sự đẹp lòng Chúa. Xin cho chúng con luôn xác tín lòng mến là thước đo cho mọi giá trị đạo đời. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- NĂM C
VÂNG LỜI THẦY CON THẢ LƯỚI- Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, dù chưa biết gì về đạo Thiên Chúa, thế mà đã có những lời nguyện thành khẩn trông cậy trời:
“Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đút bếp”.
Lời van xin đơn sơ mộc mạc đó đã nói lên sự bất lực của mình và nhận ra quyền phép vô cùng của Thiên Chúa, đã tỏ bày lòng thành khẩn của mình và nhận biết lòng thương xót vô biên ban ơn giáng phúc của Thiên Chúa. Quyền phép và tình thương của Thiên Chúa đã làm ra mưa, ra nước, ra ruộng, ra rơm. Giới hạn khả năng của con người ở chỗ biết cầy, biết uống, biết ăn, biết lấy rơm đút bếp.
Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại, những thứ căn bản, những thứ nguồn gốc sinh sự sống cho muôn loài muôn vật. Con người phải biết trông cậy, nương nhờ, tham gia, khai triển để làm ăn, nuôi dưỡng và phát triển sinh sống sao cho đáng lãnh ơn trời, chứ đừng phung phí, phá hoại.
Phaolô trước khi trở lại ông đã hăng hái phá hoại, bắt bớ những kẻ khác. Nhưng nhờ ơn Chúa, ông trở lại đạo Chúa, ông đã tham gia vào công trình cứu độ của Chúa, đã làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác, nhưng ông đã thú nhận “thật ra không phải tôi, mà là ơn Chúa nơi tôi”, ông cũng nói: “Tôi gieo, anh em tưới và Thiên Chúa cho mọc lên!”
Isaia cũng nhận vô tài bất lực trước Thiên Chúa: “Thánh! chí Thánh! ngàn trùng chí thánh, Chúa tể càn khôn, cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Ông đã thốt ra: “Khốn thân tôi, chết tôi rồi! Tôi là người môi miệng ô uế”. Nhưng nhờ than hồng là lửa tình thương của Chúa, ơn Thánh thần của Chúa đã thanh tẩy ông, ông đã được sạch, được sai đi làm tiên tri và ông đã mau mắn xin vâng: “Có con đây, xin Chúa sai con đi”.
Đặc biệt hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta đưa mắt nhìn con thuyền Phêrô với cánh buồm no gió căng phồng lướt sóng, xa dần rồi mất hút giữa biển cả bao la. Phêrô sống với cái nghề vô danh, đầy may rủi và luôn phải vật lộn với giông tố nguy hiểm. Vô danh vì công việc nặng nhọc giữa biển khơi, không ai biết tới. May rủi vì chẳng bao giờ nắm chắc kết quả, thất bát thường xuyên, dù cố gắng vật lộn với nghề nghiệp. Con thuyền lại luôn tròng trành trên sóng nước, bảo tố. Mạng sống con người quá mong manh. Phêrô dầu kiên cường, hăng hái, lạc quan chống đỡ, nhiều lúc phải chán nản, thất vọng thở dài: Suốt đêm kéo lưới cực khổ chẳng được gì!
Đang lúc buồn phiền mệt nhọc đó, Đức Giêsu lại còn đến cậy nhờ lên thuyền để giảng cho dân chúng đông nghẹt đứng trên bờ. Tuy nhiên, Phêrô không quản ngại rước Người lên thuyền. Giảng xong, Người cũng không để Phêrô nghỉ ngơi, lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới bắt cá. Dầu cực nhọc và biết rõ Thầy chẳng bao giờ làm người chài lưới. Còn ông rất rành nghề. Thế mà ông chỉ nói: “Thưa Thầy, suốt đêm chúng con vất vả kéo lưới chẳng được gì; nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Thật lạ lùng trước lòng tin của Phêrô vào Thầy! chính nhờ đức tin đó, Phêrô đã hiến nhà mình làm trung tâm truyền giáo cho thành phố Caphanaum, và các miền lân cận. Người đã ban cho ông một trung tâm truyền giáo vĩ đại là đế quốc Rôma. Ông đã hiến cho Chúa con thuyền bé nhỏ mong manh. Người đã ban cho ông con tầu Giáo Hội vững chắc dù sức hùng satan vẫy vùng như vũ bão, cũng phải đầu hàng. Ông đã hiến cho Chúa nghề đánh cá, Người đã làm cho ông nên ngư ông trên biển cả trần gian. Ông đã hiến cho Chúa trót cả mạng sống, Người đã ban cho ông được đời sống vinh quang muôn đời. Ông đã hiến tất cả cái tạm thời và ông đã được tất cả cái trường tồn vô cùng. Ông đã hiến cái nhỏ bé trần gian và ông đã được chìa khóa vĩ đại trên trời. Nhờ vâng lời Thầy, ông đã được tất cả.
Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên” – “Nhờ thầy mới được làm thầy”. Loài người với nhau, còn phải cần nhau, nhờ nhau như thế mới nên người. Huống chi loài người với Thiên Chúa, Đấng làm nên mình, dựng nên vũ trụ vạn vật, thì loài người phải cần, phải nhờ, phải cầu khẩn Thiên Chúa biết chừng nào! Thế mà, có kẻ đã cả gan tuyên bố như Nietzsche: Thiên Chúa đã chết rồi, thay trời làm mưa, để họ tự tôn mình lên làm Chúa, làm chủ, để làm mưa, làm gió, tung hoành phá hoại khắp nơi. May thay những hạng đó đã chết rồi!
Nếu biết nhận ra mình quá bé nhỏ, quá bất lực để chạy đến cầu khẩn, vâng theo Thiên Chúa, thì họ đã được cứu sống muôn đời.
Thiên tài vĩ đại bậc nhất nhân loại như Newton hơn cả Descartes, Einstein, thế mà ông chỉ dám nói: “Tôi chỉ là một em bé chơi đùa trên bờ biển và thỉnh thoảng nhặt được một hòn sỏi nhẵn hơn, hoặc một vỏ sò đẹp hơn những cái người ta thường tìm thấy, trong khi đó biển chân lý mênh mông trải ra trước mắt nó, vẫn hoàn toàn bí mật, chưa hề bị xâm phạm”. Càng khiêm tốn, ông càng được thế nhân tôn vinh và nhớ ơn, nên trên bia mộ ông được khắc ghi câu: “Let men rejoice that so great a glory of the human race has appeared”: Loài người hãy hân hoan rằng một vinh quang lớn lao bậc ấy của nhân loại đã xuất hiện” (Nguyễn hiến Lê: Gương Hy Sinh – tr. 7).
Isaia cũng đã kêu lên: Khốn thân tôi, chết tôi rồi và được Thiên Chúa cho làm tiên tri vĩ đại. Phaolô đã thú nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong các tông đồ” và đã được ơn Chúa giúp cho làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác. Phêrô đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu và van xin: “Lạy Thầy, xin tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”. Và đã vâng lời Thầy đi thả lưới được muôn linh hồn về cho Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con hết lòng khiêm tốn vâng lời Chúa ra khơi biển đời để thả lưới, cho lưới con được đầy bạn hữu biết khẩn cầu và tôn vinh Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam