Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1378749
VẠN PHÚC ĐẤNG NGỰ ĐẾN NHÂN DANH CHÚA
Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa.
(Lm. Phanxicô Xaviê Phạm Đức Trị)
Is 50, 4-7; Pl 2,6-11; Mt. 21, 1-11
Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng... Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?
Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: "Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?" Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..
Phía trên đầu Người có bản bản án viết "Đây là Vua dân Do thái". Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa... nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu.
Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.
74. Tin tưởng hay thất vọng – Lm. Minh Nhiên.
Mt 26,14-27,66
Trong một lần nói chuyện, Đức Tổng giám mục Fulton Sheen chỉ vào thánh giá ngài đang đeo trên ngực rồi nói: " Thánh giá bạc mà tôi đang đeo đây, tôi đeo để đền tạ." Khi hỏi lý do, ngài trả lời: "Một hôm vào thăm một người bạn gốc Do thái bán đồ nữ trang ở Nữu Ước. Ông nói với tôi: "Tôi có một ít thánh giá bạc cho Đức Cha", và ông trao cho tôi một bao đựng khoảng hơn một trăm thánh giá. Tôi hỏi: "Ông kiếm được ở đâu nhiều vậy?" Ông trả lời: "Từ các nữ tu, họ mang đến và nói với tôi: "Chúng tôi không còn đeo tượng thánh giá nữa, vì chính những tượng này đã làm ngăn cách, chia rẽ chúng tôi với thế giới hôm nay. Ông trả cho chúng ta bao nhiêu tiền với số bạc này". Tôi cân và thấy nặng khoảng 30 miếng bạc". Rồi ông nói với tôi: "Tôi nghĩ rằng tượng thánh giá đã là một cái gì biểu hiệu quí giá đối với các Kitô hữu. Phải chăng có gì không ổn, có gì trục trặc với tôn giáo của Đức Cha?" (Through the Year with Fulton Sheen, trg 14-42).
Người ta bán tượng thánh giá và cho rằng thánh giá là căn cớ làm cho họ xa lạ với thế giới hôm nay. Giuđa đã bán Chúa và nộp Chúa bằng cái hôn của mình để lấy 30 đồng bạc. Ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, người ta đã đang bán Chúa với những giá của khác nhau, và với những lý do khác nhau.
Ngày hôm xưa Phêrô chối Chúa qua những lời chất vấn của cô đầy tớ gái. Ngày hôm qua một số người đã chối đạo trước những hạch sách đe dọa của quan quyền, và ngày hôm nay với những lý do này hay lý lẽ nọ cũng đã khiến cho có những người chối Đức Kitô, không dám nhận mình là Kitô hữu.
Dù cho con người có yếu đuối sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêư thương con người. Ánh mắt Chúa đã tìm, đã gặp, và đã cảm hóa được Phêrô, ánh mắt ấy cũng đã đi tìm Giuđa, nhưng không gặp được vì Giuđa thất vọng và lẩn tránh, dầu vậy chuyện kể rằng Chúa vẫn luôn hướng tìm và chờ đợi. Ngày tận thế đã đến, tất cả các thánh đều vui mừng ca hát, nhảy múa, reo hò trong hoan lạc sung sướng. Mọi người đều vui trừ một mình Chúa Giêsu. Ngài đứng yên lặng dưới bóng rợp cạnh cửa thiên đàng. Một vài vị thánh đến hỏi thăm xem Ngài đang làm gì thế. Ngài trả lời: "Cha đang đợi Giuđa".
Chắc hẳn trong đời sống nhiều lần chúng ta đã lam phiền lòng Chúa và thái độ của chúng ta có thể phần nào giống như của Phêrô hoặc Giuđa: ăn năn thống hối hay thất vọng buông xuôi. Hôm nay bắt đầu bước vào tuần trọng nhất trong năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta đừng nhẫn tâm xa tránh ánh nhìn đầy ắp yêu đương của Chúa, nhưng hãy thật tình trở về, khiêm nhượng xin ơn tha thứ, và tin cậy vào tình Chúa thương yêu.
75. Minh họa lời Chúa – Chúa Nhật Lễ Lá năm B
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
THEO CHÚA GIÊSU CHỊU THƯƠNG KHÓ
1. Dấu chỉ tình yêu vô biên
Trong sách “Kẻ du hành”, ông Mattheson kể về nhóm người khám phá ra thứ năng lượng giúp con người đi ngược lại dòng thời gian. Và người đầu tiên dùng tàu du hành để đi ngược dòng thời gian là ông Jairus. Ông là người không tin Chúa, nhứt là không thể tin Chúa Giêsu chịu chết khổ giá vì thương nhân loại. Ông nhứt định đi ngược dòng thời gian đến thời Chúa Giêsu chịụ đóng đinh xem thực hư thế nào.
Không bao lâu, ông đã đi lùi lại thời gian: 100 năm, 1000 năm, 2000 năm… và kìa ông thấy trước mắt 3 cây thập giá. Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây giữa đầu đội mão gai, thân mình đầy máu!... Ông cảm động quá không cầm được nước mắt!... Chẳng ngờ Chúa Giêsu thương loài người đến thế. Và ông đã tin Chúa.
-----
Cái chết đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá là dấu chỉ tình yêu vô biên của Người đối với nhân loại, là lời mời gọi mọi người đáp trả tình yêu của Người bằng sự cải thiện đời sống vì yêu mến Người, và bằng sự thương yêu như Lời Người: “Hãy yêu thương nhau như thầy thương yêu các con”. (Theo “Sunday homilies”).
2. Ba nỗi đau thương
Trong thế chiến thứ hai, Cha Titus Brandsma bị Đức quốc xã bắt lúc làm viện trưởng đại học Hòa Lan, và giam tại trại tập trung ở Đa-Châu trong cái cũi nhốt chó. Lính gác bắt cha phải sủa lên mõi lần chúng đi ngang qua. Thật là nhục nhã xấu hổ. Nhưng Ngài cố gắng cam chịu với Chúa, theo gương Chúa… Cuối cùng, Ngài chết vì bị tra tấn dã man…
Trang nhật ký để lại, Ngài nói: - Tôi chịu nỗi đau đớn tủi nhục nhờ biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ sỉ nhục trước tôi!
Theo Chúa Giêsu chịu thương khó.
-----------
Sự thương khó Chúa Giêsu đã từng là nguồn sức mạnh cho vô số người trong suốt dòng lịch sử. Những ai gặp đau khổ, thử thách, sỉ nhục, thất vọng, chán nản, tủi nhục nhờ Người mà vượt thắng can đảm.
Và Chúa chịu thương khó cả ba hình thức: đau khổ tinh thần trong Vườn, chết đau đớn thân xác khi bị đòn, bị đóng đinh, và đau khổ tâm linh đặc biệt lúc sắp chết trên khổ giá như bị Chúa Cha ruồng bỏ: “Lạy Chúa Con, sao Chúa bỏ con!...”
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba nỗi đau đớn chúng ta có thể gặp trong cuộc sống. Mỗi khi gặp đau khổ thử thách dưới hình thức nào đều có Chúa thông cảm nâng đỡ, nếu chúng ta nhìn lên Người (Theo Cha M. Link)
3. Anh không có gì hơn để cho em
“Phía trên đầu người, chúng đặt bản án xử tội Người viết rằng: Người này là Giêsu, vua người Do Thái” (Mt. 27,37).
Một số thợ lặn đã khám phá chiếc tàu bị đắm. Một trong những vật quý mà họ tìm thấy trong tàu là chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Trên mặt chiếc nhẫn có khắc hình một bàn tay nắm chặt trái tim. Bên dưới có dòng chữ:
“Anh không có gì hơn để cho em”.
Dòng chữ đó cũng được khắc vào thập giá Chúa Giêsu:
“Cha không có gì hơn để cho con”
Bằng cái chết đau khổ trên thập giá. Chúa Giêsu đã cho chúng ta tất cả những gì Người có: Mình Máu Thánh Người, tình yêu và mạng sống của Người. vì yêu thương chúng ta và để cứu rồi chúng ta!...
Chúng ta đã cho Chúa được gì? Bao nhiêu? Thời giờ? Sức khỏe? Mạng sống?...Điều gì cản trở chúng ta đáp trả tình yêu vô biên của Chúa?... (Theo “Viễn tượng 2000”).
4. Xử án Thiên Chúa
Một người mơ thấy ngày tận thế. Mọi người được tập trung chịu Chúa phán xét. Nhiều người run sợ, nhưng có kẻ phẫn nộ.
Một phụ nữ nói: Sao Ngài xét xử tôi được? Ngài có biết đau khổ là gì đâu? Còn tôi bị đòn bị đánh muốn chết. Vừa nói nàng vừa vạch tay cho thấy vết sẹo.
Kế đến, một người da đen cúi đầu xuống, cho lộ ra sợi dây thừng trên cổ chỉ vì tội là người da đen, bị bán làm nô lệ!...
Rồi bao nhiêu người tiếp tục tố cáo Chúa: nào là ở trên trời sung sướng, nào là không đổ giọt mồ hôi, nào là không biết gì về đói khát, bệnh tật, tù đày, đau khổ, nhục nhã như con người.
Thế rồi họ đồng thanh kết án Ngài, bắt Ngài xuống sống dưới trần gian như mọi người. Họ còn góp ý:
- Bắt Ngài làm một người Do Thái.
- Buộc Ngài phải làm việc bù đầu đến nỗi người nhà cho mất trí.
- Ngài phải khổ đau vì bạn thân phản bội.
- Ngài phải bị kết án là kẻ lừa đảo và bị xử tử.
- Ngài phải nếm cảnh chết chóc cô đơn khủng khiếp vv…
Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người đều im lặng… Và bỗng nhiên họ nhận ra Ngài thi hành bản án ấy của họ từ lâu!... (Floor Mc Carthy).
5. Tình yêu đòi hỏi đau khổ
“Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy, chế diễu chán, chúng lột áo điều ra và cho Người mặc lại áo của mình. Sau đó, chúng điệu Người ra để đóng đinh vào thập giá” (Mc.15, 19-20).
Trong cuốn sách “Chúa Giêsu là ai” tác giả Anthony Padovano viết: “Chịu khổ hình thập giá không có nghĩa là chịu đau khổ vì đau khổ, mà còn vì một cái gì khác. Chúa Giêsu chịu đau khổ không phải vì đau khổ tự nó có giá trị, nhưng là vì tình yêu đòi hỏi đau khổ. Chúng ta được cứu rồi không chỉ vì cái chết thể xác củ Chúa Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Tôi đã đang và có thể làm gì cho Chúa Kitô? (Trích “Viễn tượng 2000”).
“Thật bất hạnh, nếu chết mà không được hưởng tình yêu của Chúa Kitô.Cũng thật bất hạnh, nếu tình yêu không được thể hiện bằng cái chết của Ngài” (Thánh Phanxicô Salesiô)
6. Chúa vô tội
“Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-Thái không? Bởi ông thừa biết chỉ vì ganh tỵ mà các thượng tế nộp Người” (Mc. 15,9-10).
Một nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi Châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết đau khổ trên thập giá của Người. Người vô tội, nhưng chết vì tội lỗi loài người!...
Ngồi trước bục giảng là tên tù trường. Ông chăm chú nghe nhà truyền giáo. Khi nghe tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, ông đứng phắt dậy nói:
-Ngừng lại. Hãy đem Người xuống khỏi thập giá. Chính tôi mới là kẻ đang bị đóng đinh trên đó, chứ không phải Người, vì Người vô tội, tôi là kẻ có tội.
Phải chăng vì tội chúng ta mà Chúa Giêsu phải chịu chết đóng đinh trên khổ giá, để đền tội chúng ta? (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
7. Chết để cứu con
Bà Giana Moletta qua đời cách đây 30 năm, được Đức Thánh Cha phong chân phước năm 1994.
Bà sinh năm 1922. Lớn lên lập gia đình, sinh được ba người con, trong đó có 2 người làm linh mục, chồng bà làm kỹ sư, bà làm bác sĩ. Cả hai vợ chồng cùng liên kết trong một niềm tin và một lý tưởng phục vụ người nghèo khổ. Thật là một gia dình hạnh phúc! Nhưng thảm kịch đã đến với họ!...
Năm 46 tuổi, bà có thai một lần nữa. Cái nhọt trong tử cung bà lại biến thành ung thư. Là một bác sĩ, bà biết rõ những gì sẽ đến với bà… Nếu giải phẩu để cứu sống bà thì đứa con phải chết. Nếu cứu đứa con thì chính bà phải hy sinh. Cuối cùng bà tự nguyện hy sinh bản thân để cứu sống đứa con!...
----------
Bà Giana Moletta là hiện thân tình yêu Thiên Chúa ở giữa trần gian. Cái chết tự nguyện của bà nối dài cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên thập giá. Bà chịu chết để cứu sống đứa con. Chúa Giêsu chịu chết để toàn thể nhân loại được sống (Theo “Thiên Đàng là thế đó”).
8. Xin phó thác hồn con
“Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. (Lc. 23,46).
Mục sư Dietrich Bonhoeffer đã bị Đức quốc xã hành hình trước ngày lễ Phục Sinh. Bác sĩ nhà tù nói về cái chết của ông như sau:
“Tôi thấy mục sư Bonhoeffer quỳ trên sàn, chăm chú cầu nguyện. Tôi xúc động bởi cách ông cầu nguyện, thành khẩn và chắc chắn đến nỗi Thiên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. tại nơi hành hình, ông can đảm và bình tĩnh leo lên những bậc thang dẫn đến chỗ treo cổ. Cái chết của ông diễn ra vài giây sau đó. Trong suốt khoảng 50 năm với tư cách một bác sĩ, tôi chưa bao giờ chứng kiến một người chết hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa như vậy” (Ebekhardd Bethge).
----------
Nhờ đâu mà mục sư Bonhoeffer sẵn sàng lãnh nhận cái chết can đảm bình tĩnh như thế? … Vì sao Chúa Giêsu phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha?... Và tôi, tôi quan tâm đến những gì khi biết tôi chỉ còn sống vài giây phút nữa?...
“Chết không phải là nhảy vào khoảng trống, mà là gieo mình vào tay Chúa”. (Pedre Arrupe) (Trích “Viễn Tượng 2000”).
9. Sống vì Đấng đã chết
Một trong những câu chuyện nổi tiếng thế giới là câu truyện về Robinson Crouse, được dịch ra tiếng Việt là “Lỗ-Bình-Sơn phiêu lưu ký”. Robinson là một người rất thích phiêu lưu. Một ngày kia tàu ông bị đắm và tắp đến hoang đảo, ông sống ở đó một mình mười năm tròn.
Một lần kia, ông cứu được một người bản địa khỏi bị bộ lạc giết ăn thịt, và đặt tên cho y là Thứ Sáu. Vì cảm kích ơn cứu tử, Thứ Sáu bằng lòng làm tôi ông suốt đời. Suốt đời còn lại, y chỉ sống cho Robinson…
----------
Khi anh Thứ Sáu được cứu sống. Robinson không phải thiệt mạng, không bi thương tích cũng chẳng bị thiệt hại gì, mà anh Thứ Sáu còn sẵn lòng làm tôi tớ ông suốt đời, huống chi Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng, chịu thương tích và đổ hết máu ra cứu chúng ta khỏi chết, chúng ta phải có thái độ nào đối với Người? (Trích “Chuyện hay ý đẹp”).
Thánh Phao lô dạy:
“Đức Ki tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không phải cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta”. (2Cr.5,15)
10. Chiến thắng nhờ thập giá
Lúc 23 tuổi, Constatin được quân La mã đóng tại York tôn lên nối ngôi người cha là Constantius. Để được lòng đế quốc, ông phải chiến thắng kẻ thù.
Ngày 28 tháng 10 năm 312, ông đến sông Tiber, khúc có cầu Milvian ở Bắc La mã, quân Maxentius mạnh hơn ngăn chận không cho ông qua sông. Lúc đó thình lình ông thấy một cây thập tự sáng chói trên bầu trời, phía dưới có hàng chữ: “Với dấu này, ngươi sẽ chiến thắng” (In hoc signo, vinces). Sáng hôm sau trước khi vào trận, ông vội vã ra lệnh tướng sĩ sơn hình thập giá trên mũ của họ và của ông. Họ xáp chiến can đảm và ông đã thắng trận. Ông tin nhờ thập giá mà ông chiến thắng. Do đó năm 313, ông đã ký sắc lệnh Milan, hủy bỏ cuộc bắt đạo và cho mọi người hoàn toàn tự do theo đạo nào mình chọn.
----------
Constantin nhờ thập giá mà thắng được giặc. Chúng ta sẽ nhờ ai để chiến thắng ma quỷ xác thịt thế gian? … Phải chăng thánh Phao lô trả lời: “Chính người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1Gr.1,8) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
Linh mục George Parkec là giám quản xứ Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Hoa kỳ. Năm 1996, Ngài đã được nghị sĩ Dodd giúp cho số tiền 5000 đô la. Nhưng ngài đã gửi trả lại để phản đối ông ta là một nghị sĩ Công Giáo mà liên tục bỏ phiếu ủng hộ dự luật phá thai
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích mến phục, nên đã gửi giúp cha khoảng 61.000 đô la. Nhưng nghị sĩ Dodd bực tức, đã vận động cất chức quản xứ của Cha, buộc lòng cha phải nghỉ hưu đang khi còn có thể phục vụ giáo dân được.
----------
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu tâm trạng Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Thánh Gioan thuật lại: “Sắp đến lễ Vượt qua, nhiều người đi Giêrusalem…Họ tìm kiếm Chúa Giêsu và hỏi nhau: Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ. Còn bọn tư tế và biệt phái thì ra lệnh: Ai biết ông ấy ở đâu phải báo cho họ đến bắt” (Ga. 11,55-57). Như thế, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không chút sợ hãi. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết. Vì yêu thương nhân loại, Người không sợ bị bắt bớ, chết chóc. Người cương quyết lên Giêrusalem đang khi người ta tìm bắt giết Người.
Chúng ta có dám hy sinh vì Chúa vì anh chị em chúng ta như thế không?
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
76. Con Đường Tình Yêu – Lm. Kiều Công Tùng.
Nghi thức tuần thánh khởi đầu bằng một cuộc kiệu Lá để tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem. Một cuộc kiệu tưng bừng tiếng tung hô: "Hoan hô thái tử nhà Đa-vít! Chúc tụng Vua Ít-ra-en", nhưng lại nhuốm buồn vì liền ngay sau đó chúng ta được nghe trình thuật về cuộc thương khó của Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, có ba cuộc kiệu như thế. Hai cuộc kiệu còn lại vào chiều thứ Năm tuần thánh - kiệu Mình Thánh Chúa, và Đêm Vọng Phục Sinh - kiệu Nến Phục Sinh. Những cuộc kiệu trong khung cảnh cuộc thương khó vừa mở ra trước mặt chúng ta một con đường, vừa như là một nhắc nhớ: đằng sau buồn thương có niềm vui cứu độ, qua khổ nạn sẽ là Phục Sinh.
Đường đưa tới vinh quang
Bài thương khó theo thánh Mát-thêu đã gợi lên những hình ảnh xem ra hoàn toàn trái ngược với cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật vậy, việc Chúa được dân chúng tung hô đón rước khi Ngài vào thành thánh chỉ là hình ảnh báo trước vinh quang đích thực Ngài sẽ nhận được khi Chúa Cha cho Ngài sống lại từ cõi chết. Nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải đi vào con đường khổ nạn, phải tự hiến mình làm hy lễ dâng lên đẹp lòng Cha.
Rất nhiều lần chiêm ngắm bức ảnh Chúa hấp hối, chúng ta thấy được gì phía sau hình ảnh một Chúa Giêsu đẹp đẽ uy nghi quì gối bên một phiến đá dưới ánh trăng vàng đầy thơ mộng? Chúng ta có nhận thấy một Đức Kitô đang gập mình xuống đất, oằn oại trong cơn khủng hoảng vượt quá sức mình? Chúng ta có hiểu được lời Ngài thổ lộ với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được" (Mt 26, 38) và cả tiếng kêu thống thiết trên thập giá: "Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27, 46).
Nỗi đắng cay như vây kín và xiết chặt lấy Ngài, đắng cay của người bị bạn mình phản bội, của Thầy bị môn đệ chối từ và bỏ rơi, của Đấng cứu tinh bị dân mình loại trừ. Tất cả đều do sự ích kỷ, lòng kiêu căng và nỗi tham vọng của con người. Thân xác Chúa khổ sầu đến nỗi mồ hôi máu đổ ra và tâm hồn Ngài gần như tan nát không phải vì những roi đòn và nhục mạ, nhưng chính là gánh nặng của tội lỗi nhân loại. "Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (Is 53, 4).
Qua khổ nạn mới đến Phục Sinh. Đó chính là chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa Cha và Chúa Con được tôn vinh. Còn trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lại muốn đạt đến vinh quang bằng những con đường ngắn nhất và dễ nhất. Cuối cùng, những gì mà họ có được chỉ là hư ảo, tầm thường nhất và cũng mau qua nhất.
Đường nở hoa tình yêu
Đức Giêsu chịu chết khổ hình nhằm cứu chuộc nhân loại và cũng để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Nhiều khi ta tự hỏi: có cần phải như thế với một Thiên Chúa quyền năng? Hẳn rằng điều làm cho Hiến Lễ Thập Giá của Đức Giêsu trở nên có giá trị và đem lại ơn Cứu Độ không phải là đau khổ hay sự chết, mà là tâm tình vâng phục trong yêu mến đối với Chúa Cha; nhưng chính đau khổ và Thập Giá lại là cách thế diễn tả tâm tình đó thật tuyệt vời.
Sự vâng phục yêu mến của Đức Giêsu đã được I-sai-a báo trước qua hình ảnh người tôi trung: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui" (Is 50, 5). Còn thánh Phao-lô đã ca ngợi: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 7 - 8). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu thưa với Chúa Cha trong vườn cây Dầu đã nói lên tất cả sự vâng phục yêu mến: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha" (Mt 26, 42).
Con Thiên Chúa đâu có lạ gì với những đau khổ của phận người khi bước vào trần gian. Đứng trước con đường khổ nạn, Ngài không hỏi tại sao cũng chẳng buông lời nguyền rủa, nhưng Ngài đã bước đi và đi tới cùng với tất cả tình yêu, tình yêu thật lớn lao dành cho Cha và nhân loại, và lập tức bao nhiêu đau khổ kia trở nên ý nghĩa. Con đường Thập Giá bỗng nở hoa rộn ràng. Cây Thánh Giá đã trở nên lộng lẫy với vương miện tình yêu. Qua đó, Đức Giêsu cũng dạy cho con người một bí quyết để sống hạnh phúc, để có hòa bình: Tình yêu và tha thứ.
Như thế, con đường mà Phụng Vụ Tuần Thánh đang mở ra cho chúng ta chẳng phải là "con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về", nhưng là con đường đã in dấu chân, đã thấm mồ hôi và đã mang cả trái tim của Thầy Giêsu - Con Đường Thập Giá.
Cùng Chúa ta lên đường
Lời Chúa hôm nay muốn đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá của Đức Giêsu không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó khăn gì. Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Pascal đã nói: "Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận thế". Mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị loại khỏi lòng mẹ một cách bất công. Và còn bao nhiêu người đang ở trong điều kiện sống chẳng xứng với phẩm giá của mình. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối giữa thế giới hiện đại. Chúng ta vẫn gặp những Kitô hữu đang bị lo lắng, buồn rầu, ấm ức... dày vò nghiền nát. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối trong nhiệm thể Ngài. Và chính đời sống chúng ta nhiều khi cũng nhuốm phiền muộn, bất an, lo sợ, nghi ngại và xáo trộn. Nếu ta biết đón nhận với lòng khiêm tốn và tình yêu để cứu rỗi thế gian thì trong ta, Đức Kitô cũng đang tiếp tục hấp hối và thân thưa với Chúa Cha rằng: "Xin đừng theo ý con, nhưng xin vâng ý Cha hoàn toàn".
Đã hơn 2000 năm rồi, tất cả những gì đã xảy ra dường như vẫn đang còn diễn lại. Chúng ta vẫn đang cùng Đức Giêsu đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế. Chớ gì lời Đức Giêsu mời gọi: "Hãy vác thập giá mình hằng ngày" (Lc 9, 23) luôn vang vọng bên tai chúng ta mỗi khi phải đối mặt với thử thách hay khi bị lăng nhục nhạo cười... Sau khi đã hiểu thấu ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa, hẳn chúng ta sẽ thấy yêu Thánh Giá của Chúa hơn, và cũng mến Thánh Giá của mình hơn, đồng thời biết kính trọng Thánh Giá của người khác nữa.
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu Thương Khó, có lẽ mỗi người chúng ta đều rất sốt sắng với lời hát: "Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình... Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối..." Chớ gì chúng ta luôn có được tâm tình của Đức Giêsu hôm nay, để hân hoan tiến bước vào đời tiếp tục con đường nên Thánh và cứu thế của Ngài, Con Đường Tình Yêu dẫn tới Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
77. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a/ Đau khổ về thân xác
- Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
- Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b/ Đau khổ về tinh thần
- Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
-----------------------------------
[i] Tác giả An Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
[ii] sđd trang 232-269.
78. Một chứng nhân trực tiếp – Camille Gagnon.
Hôm nay, tường thuật về cuộc thương khó được trích từ Tin Mừng theo thánh Maccô. Đây cũng là một chứng tá vì, theo truyền thống, thánh Maccô đã có mặt trong vườn Cây Dầu: Một thanh niên theo Chúa Giêsu; Người chỉ khoác một tấm vải trải giường. Người ta túm lấy anh, nhưng anh ta bỏ tấm vải trải giường lại mà thoát thân”. Thánh Maccô cũng là kẻ đã được thánh Phêrô trao đổi tâm sự: thánh Maccô đã là bạn đồng hành với thánh Phêrô sau khi Chúa Phục Sinh và hai người đã cùng nhau rao giảng Tin Mừng. Maccô cũng đã nhiều lần nghe kể câu chuyện về con gà gáy vào lúc rạng đông và kết thúc cái đêm phản bội ấy.
Vậy đây là một vụ án với một chứng nhân trực tiếp, một chứng nhân nhớ lại nhiều chi tiết mà những người khác không nhớ.
Một vụ án bình dân.
Nơi thánh Maccô, vụ án của Chúa Giêsu là một vụ án bình dân. Một con người bị điệu ra trước đám đông, một đám đông kinh ngạc vì tất cả những biến cố đang dồn dập xảy đến. Đám đông này ngày mai sẽ không biết trả lời thế nào nếu người ta hỏi tại sao đã la lên: “Giêsu Nadaret” thay vì “Barabas”. Quần chúng hành động theo bản năng vì hoảng hốt; họ la lên trước một việc nhất thiết phải xảy đến.
Trong vụ án này có nhiều nhân vật, đó là những chứng nhân ít được biết đến mà các thánh sử khác đã bỏ qua, và những chứng nhân này hầu như không có gì để làm cả, nhưng vẫn có mặt ở đó.
Còn chúng ta, chúng ta làm gì trong vụ án này? Chúng ta, những chứng nhân trực tiếp cuộc tử nạn của Chúa Kitô ngày hôm nay: chúng ta, trong một đám đông vô danh, chúng ta không biết mình la lên vì ai!
79. Chú giải của Noel Quesson.
(Mc 14,1 – 15,47)
Trang Tin Mừng hôm nay muốn giúp mọi Kitô hữu đang ước ao sống trọn một tuần lễ “thánh”. Những lễ nghi trong tuần này là những lễ nghi đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất trong năm. Nhưng chúng ta chỉ thực sự sống những lễ nghi đó cách nội tâm, nếu cá nhân mỗi người trong ta đã suy gẫm những “biến cố” tạo nên “tuần lễ” này, chắc chắn, đó là những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Chúng ta đã làm nghiêng ngả dòng lịch sử và thay đổi bộ mặt hành tinh trái đất chúng ta.
Đọc bài thương khó một lần, cách phớt qua, là không đủ. Cần phải để cho nó thẫm nhiễm trong ta. Nên đọc đi đọc lại. Chúng ta chưa lưu ý đúng mức “vị trí” mà bài thương khó nắm giữ trong toàn bộ “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô”! Trong trình thuật của Mác-cô, bài thương khó là phần thứ năm của Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về một tiểu sử, màphần quan trọng nhất trong đó, lại dành để kể lại cái chết của một nhân vật ta muốn nói tới? Ta lại càng ngỡ ngàng hơn khi những trình thuật đó đã được viết sau sự kiện sống lại, bởi những người đang sống trong ánh sáng của biến cố Phục sinh vinh hiển. Thế mà, các nhà trước tác lại không nhấn mạnh đến biến cố Phục sinh đó. Trong bản văn bằng tiếng Hy-Lạp của Mác-cô, bài thương khó đã chiếm tới 160 dòng chữ viết…và cuộc Phục sinh chỉ có 46 dòng, hay 19 dòng, nếu ta không kể những câu 16,9 đến 20, là những câu được một người khác với Mác-cô thêm vào văn bản sau đó.
Đúng vậy, cái chết cua Đức Giêsu phải là vấn đề chủ yếu: có một "bí mật" nào đó cần phai được khám phá.
Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!... Điều gì làm được thì cô đã làm: "Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai táng" (Mc 14,8).
Toàn thể phần đầu Bài Thương Khó (14,1-42) kể lại "âm mưu ám hại Đức Giêsu”, "việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a", “Giu-đa phản bội", "chuẩn bị mừng lễ Vượt qua", "báo trước việc Giuđa phản bội", "thiết lập Bí tích Thánh Thể và "cơn hấp hối tại Ghét-sê-ma-ni"... tất cả những chi tiết đó cho ta thấy, Đức Giêsu bắt đầu sống trong nội tâm Ngài Cuộc thụ Khổ, trước khi nó diễn ra trên thân xác cách cụ thể. Các bạn hãy đọc 42 dòng đầu chương 14 của Máccô. Trong khi đọc như thế, các bạn hãy tìm hiểu tư tưởng và tâm tình của Đức Giêsu. Phải, trước khi xảy ra cuộc bắt giữ, khởi đầu cho tiến trình thụ khổ bên ngoài, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn cuộc thụ khổ đó trong lương tâm, trong ý thức trước về việc tự nguyện dâng hiến của mình: Người đã thấy trước mình sẽ được "mai táng" (14,8), "bị phản bội" (14, 10.14,17), "phải đổ máu” (14,24), "bị mọi người bỏ rơi và bị Phêrô chối từ" (14, 27-30). "hấp hối" (14,34-36) Nhưng Đức Giêsu đã bắt đầu ý thức vấn đề sớm hơn nhiều. Thế thì Người đã nói đến cái chết sắp tới của Người từ lúc nào? Hiển nhiên hơn cả là lúc "Phêrô tuyên xuống Đức tin tại Xê-da-rê (Mc 8,31): kể từ ngày đó, đã ba lần Đức Giêsu nói với các bạn hữu Người về cái chết dữ dằn và khổ nhục của mình (Mc 8,3,31 - 9,30 - 10,33). Nhưng cũng cần phải ngược lên xa hơn. Các bạn hãy đọc câu 14 của chương I Tin Mừng Mác-cô: Đức Giêsu tiếp tục sự nghiệp của Gioan Tẩy Giả, khi Người biết rằng điều đã xảy đến cho cái ngôn sứ sẽ xảy đến cho ông và cũng xảy đến cho Người. Do đó, Đức Giêsu trải qua phần lớn đời Người, trong sự cảm nhận trước cái chết của mình. Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm cách tránh né khỏi phải nghĩ đến cái chết không? Đối với chúng ta, cái chết của ta không phải là "tác động" quan trọng nhất của đời người và hướng dẫn mọi hành động khác sao?
Bữa ăn vượt qua (Mc 14,12.13.14.16).
Trong đoạn này, đã bốn lần sử dụng từ "Vượt qua". Lễ Vượt qua của người Do Thái là để tướng niệm công cuộc “giải phóng"! Một dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trong những đau khổ trần gian những gì áp đặt ta, không gì có thể hủy diệt ta, kể cả trong cái chết của mình... nhờ đức tin, chúng ta có thể tiếp gặp sự hiện diện tuy bí ẩn nhưng hiển nhiên của Thiên Chúa, để giúp ta vượt thoát nhưng khó khăn đó, tới hạnh phúc bát diệt. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của Người như một cuộc "vượt qua": thay vì trốn chạy thực tế đau đớn và nhục nhã của thân phận làm người, Người đã phó mặc cho số phận bằng một thái độ liên kết yêu thương với Thiên Chúa! Cảm nghiệm về cái chết như thế, Người đã "thay đổi ý nghĩa" cho nó: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá" (Pr 2,8). Lạy Chúa, Xin. cho con biết chấp nhập mọi trái ý trong cuộc sống: đau khổ, thử thách, bệnh tật, già nua, thất bại, cô đơn, tội lỗi... như một cuộc vượt qua, như một bước đường dẫn đến Chúa.
Đây là Mình Thầy... Đây là Máu Thầy... Đức Giêsu đã nói như thế, sau khi dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy ghi nhận một số chi tiết lý thú: trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu "truyền phép rượu”, sau khi các môn đệ đã uống rượu đó ("tất cả đều uống" câu 23... Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy câu 24...). Chi tiết này có thể dẹp bỏ những tranh cãi về phụng vụ và các nghi thức chặt chẽ... như thể tuyệt đối đọc những lời trên bằng tiếng La-tinh hay tiếng địa phương, rước lễ trên tay hay phải đặt Mình Thánh nơi miệng... Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá để ý đến những chuyện tầm phào đó, nhưng hãy tiến vào tình yêu mầu nhiệm của Chúa, Đấng đã phó mình trước, cách vui tươi, trong một thái (độ "tạ ơn" (câu 22) "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hi sinh mạng sống mình" (Mc 10,45; Ga 10.18). Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta không lợi dụng việc suy niệm cuộc thướng khó để "ngay từ bây giờ và một cách tự nguyện hiến dâng" cái chết của ta, hợp ý cùng cái chết của Đức Giêsu? Đó là cách thế tuyệt diệu giúp chúng ta không còn sợ cái chết nữa, nhưng có thể bình thản nhìn nó đến, trong bình an, như Đức Giêsu và cùng với Người.
Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được uống thứ nrợu mới trong nước Thiên Chúa.
Đó là niềm vui, sự yên tĩnh, an bình biết bao! Đó là thái độ thanh thản chờ đợi "ngày đó", ngày của Thiên Chúa, ngày mà Thiên Chúa cuối cùng sẽ hiển trị, ngày mà tất cả sẽ là sự sống, tình yêu, hạnh phúc, bữa tiệc mới, rượu mới... ngày đó "sẽ không còn sự chết, cũng chẳng. còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, nhưng là tiệc cưới của con chiên" (Kh 21,4)... đó là "ngày cuối cùng", kết thúc thời gian, hoàn tất công trình của Thiên Chúa, ngày thế mạt... và tất cả chúng ta đang tiến tới ngày đó. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa. Chớ gì mỗi bữa tiệc thánh thể là bước chuẩn bị dẫn chúng con tới bữa tiệc? rượu mới trong nước của Chúa Cha", trong tình yêu.
TIẾN ĐẾN TÌNH TRẠNG CÔ ĐỘC HOÀN TOÀN.
Chúng ta hãy theo sát Đức Giêsu. Người báo trước: “mọi người " sẽ bỏ rơi Người (Mc 14,27), Phêrô, người có trách nhiệm, sẽ chối từ Người (Mc 14,30). Người chọn "ba " người trong các môn đệ để ở bên Người trong cơn hấp hối, và ba lần Người trở lại với họ để nài xin họ cùng thức, nhưng họ đều “ngủ" cả (Mc 14,33-37.40--41), tất cả đều "bỏ Người trốn chạy hết" (Mc 14,50)... và trên thập giá, người cảm thấy ngay Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người (Mc 15,34). Thật là cô độc hoàn toàn. Mọi người đều phải chết cách cô lẻ. Đức Giêsu đã không tìm cách tránh né. Người vâng theo định mệnh con người".
Anh em ngồi lại đây. Thầy đi cầu nguyện (Mc 14,32)... Lạy Cha Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (14,36).
Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "ê-lô-I, Ê-lô-i, La-ma-sa-bác-tha-ni!" nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con" (Mc 15,34).
Như thế, trong cuộc thụ khổ, Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện. Trên đây là hai lối cầu nguyện: cầu nguyện tại Ghét-sê-ma-ni và cầu nguyện tại Gôn-gô-tha. Máccô còn cho ta biết, Đức Giêsu đã cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ tiếng A-ra-mên, thứ tiếng mà khi Người còn là cậu bé, Đức Maria đã dạy Người cầu nguyện: "Ap-ba" có nghĩa là "Ba ơi", "Ê-lô-i” có nghĩa là "Thiên Chúa của con"... Lạy Chúa, xin giúp con khi gặp đau khổ dám cầu nguyện thưa gửi như Chúa:
1. Xin cho con khỏi đau khổ này!
2. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.
Nếu tôi có sách Kinh thánh (nhưng một gia đình Công giáo đã chắc gì có Kinh thánh!), tôi sẽ đọc lại trọn Thánh Vịnh 21. Đức Gỉêsu đã dùng Thánh Vịnh này để cầu nguyện trên thập giá. Khởi đầu Thánh Vịnh hoàn toàn có tính chơ vơ cô lẻ nhưng khi kết thúc thì lại hớn hở mừng vui một cách hết sức nghịch lý. Đây là một trong những chìa khóa bí mật của huyền nhiệm mà ta đang tìm hiểu trong cuộc thương khó này.
HAI LỜI TỐ CÁO ĐỂ NÓI TRƯỚC MẶT THIÊN HẠ RẰNG: ĐỨC GIÊSU LÀ "CON THIÊN CHÚA" VÀ LÀ “VUA".
Trong Tin Mùng Mác-cô, có hai lời tố cáo Đức Giêsu: Một lời tố cáo có tính “tôn giáo" (Mc 14,53-65), trước Thượng hội đồng, trước "tất cá các vị Thượng tế... và một lời tố cáo mang tính “chính trị " (Mc 1 5, 1 -20), trước Phi -la-tô, viên tổng trấn đại diện cho Rôma…để “bí mật " về căn tính đích thực của kẻ bị kết án đó, Đức Giêsu Na-da-rét, được công bố trước mặt thiên hạ.
Ông có phải là Đấng Kitô, con Đấng chí tôn không?
Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy con người ngự bên hữu Đấng toàn năng, và còn thấy Người ngự giá mây trời mà đến.
Ông là Vua dân Do Thái sao? Đúng như Ngài nói đó.
Bây giờ "bí mật" đã được tiết lộ. Cuối cùng thì Đức Giêsu cũng đã nói ra Người là ai. Trong suốt đời sống công khai của mình, Đức Giêsu đã yêu cầu mọi người đoán nhận ra bí mật này phải im lặng, bởi vì con người chỉ có thể "hiểu được" Thiên Chúa, khi nhìn lên thập giá: Người là "Con", nhưng không như con người nghĩ tưởng. Người là "Vua", nhưng không như người ta chờ mong. Người con đó hoàn toàn yêu thương, không giữ lại cho mình chút nào: Đó là tình yêu tuyệt đối, liều chết cho "kẻ khác"... ông Vua này yêu thương trọn vẹn, không dành quyền thống trị: mà trở nên "tôi tớ", tặng ban mạng sống mình cho "muôn dân".
Đây là một điều hết sức mới lạ, hết sức gây ngo ngàng, đến nỗi không ai có thể hiểu được: những kẻ qua đường thì “lắc đầu” trước ông Vua người Do Thái này (Mc 15,29-30), những người tố cáo thì tiếp tục buộc Người muốn phá Đền thờ (14,58), các thượng tế vẫn nghĩ rằng'nếu là Thiên Chúa thì hẳn là sẽ xuống khỏi thập giá (15,31-32), hai tên trộm cướp bên tả và bên hữu thì sỉ nhục Người (15,32), còn các tông đồ thì chẳng thấy mặt mũi đấu cả!
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, ông này là con Thiên Chúa".
Ta cần ghi nhận, cách Đức Giêsu chết đã làm phát sinh thái độ Đức tin trên... chứ không phải biến cố "Phục sinh" xảy ra sau này. Phải, trước khi suy niệm về cuộc sống lại vinh hiển, cần phải suy gẫm về "cái chết" của Đức Giêsu: Cái chết này nói lên nhiều điều. Lạy Chúa, qua cái chết đó, Chúa nói gì với con? Con sẽ đọc lại trình thuật này... Con sẽ lắng nghe... bí mật của Chúa.
80. Chú giải của Fiches Dominicales
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ
THEO THÁNH MACCÔ
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một trình thuật có sự liên kết rất chặt chẽ.
Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Máccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:
+ Âm mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2).
+ Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác.
+ Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.
- Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ.
+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16).
+ Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21).
+ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26).
+ Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31).
+ Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42).
+ Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).
- Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).
+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:
Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65)
Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.
Phêrô chối Thầy (14,66-72)
- Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20)
+ Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).
- Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)
- Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật.
Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
2. Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin.
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi.
- Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Máccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong "Lire ba Bible" số 55, trang 1 13).
Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc.
E.Charpentier, giải thích: "Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị "tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực, " (Sđd).
Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:
+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là "Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung.
+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải "Vua dân Do Thái" không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng ("Đức Giêsu không trả lời gì nữa") ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ "Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: "Bị ngược đãi Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xé lông " (Is 53, 7).
+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con" để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.
Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Máccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá.
- Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.
- J. Hervieux nhận xét: "Máccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là "Con Thiên Chúa". Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.
Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (...).
Đồng thời Máccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “ Ông này là ai" Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng" Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. " Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa, điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1, 11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian" ("Ltevangile de Marc", Centurion, trang 230).
- Sau cùng, địa vị của PHự Nữ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa - việc hi hữu đối với một Rabbi Do Thái - trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế "nhân chứng" duy nhất: "họ đứng nhìn”, "đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng "Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).
II. BÀI ĐỌC THÊM
Bí mật rồi cũng được mạc khải
("La Bible du dimanche" trang 403-404).
Xuyên suốt Tin Mừng, Máccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.
Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).
Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Máccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách.
Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy."
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam