Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1378605
VÂNG LỜI
Vâng lời - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng lời là bỏ ý riêng mình, vâng theo ý Chúa qua sự vâng phục ý của bề trên. Vâng lời đòi hỏi sự khiêm nhu đích thực. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả về Chúa Giêsu:Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5, 8). Chúa đã nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sau khi các tông đồ đã được diện kiến và chia sẻ ăn uống với Chúa Kitô phục sinh, các Ngài đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng. Các tông đồ là những nhân chứng sống động và can đảm nhất. Các Ngài đã đối diện với nhiều quyền lực cả thần quyền lẫn thế quyền. Người ta hăm dọa và cấm cản các tông đồ. Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Tđcv 5, 29). Một chọn lựa tuyệt đối. Các tông đồ đã chọn Chúa, vâng lời Thiên Chúa. Sự chọn lựa này có thể đưa đến sự giam tù, đầy ải khổ đau và chết chóc.
Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.
Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.
Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.
Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.
Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).
Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! "(Kh 5, 13).
Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.
Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.
Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.
Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.
Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.
Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).
Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! "(Kh 5, 13).
Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.
49. Sức mạnh của tình yêu – Trầm Thiên Thu
Yêu là gì? Chưa ai có một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định-nghĩa, và chỉ "mơ hồ" nói: "Yêu là chết trong lòng một ít". Thế nào là ít hay nhiều? Mức độ cũng thật trừu tượng!
Khi yêu người ta có thể hạnh phúc hoặc đau khổ, thường là khổ nhưng vẫn phải có trách nhiệm – dù nhẹ hay nặng. Yêu là lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim.
Trái tim là trung tâm phân phối máu giúp cơ thể sống, cũng là trung tâm tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công giáo được mệnh danh là đức mến hoặc đức ái. Thánh Hirônimô phân tích: "Nếu ai không có đức ái thì dù có đức tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có tình yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có tình yêu".
Thánh Phaolô cũng đã xác định: "Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất" (1 Cr 13:13). Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là... "chuyện nhỏ". Tình yêu "nổi tiếng" thế giới là tình yêu của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thế nên Đại văn hào Victor Hugo đã định nghĩa: "Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu".
Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" (Cv 5:28).29 Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5:29). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa!
Ông Phêrô còn hùng hồn nói thẳng: "Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người" (Cv 5:30-32).
Thế rồi các Tông Đồ bị họ đánh đòn và họ cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5:41). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mộc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Người ta gọi đó là "thú đau thương". Cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của tình yêu. (Tv 30:2,4-6,11-13).
Tác giả Thánh Vịnh tuyên xưng: "Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con" (Tv 30:2).
Thật vậy, "từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống" (Tv 30:4). Do đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: "Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo" (Cv 5:5-6). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: "Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi".
Với lòng tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: "Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu" (Cv 5:11-13).
Thánh sử Gioan tường thuật về thị kiến: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc" (Kh 5:12). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ công thì được tưởng thưởng. Đó là công lý công minh và chính trực!
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!" (Kh 5:13). Cả bốn Con Vật thưa: "Amen". Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.
Tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh". Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" (Ga 21:5). Các ông trả lời: "Thưa không". Ngài bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá" (Ga 21:6). Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: "Chúa đó!" (Ga 21:7). Ôi chao! Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá! Nhưng bản tính Phêrô nhà ta là nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay. Thấy anh Hai làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Khi lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!" (Ga 21:10). Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" (Ga 21:12). Lúc này các ông biết rõ đó là Sư Phụ Giêsu rồi. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy.
Thánh Gioan cho biết đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (Ga 21:15a). Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy" (Ga 21:15c). Ngài lại hỏi: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" (Ga 21:16a). Ông cũng đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:16b). Ngài nói: "Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy" (Ga 21:16c).
Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?" (Ga 21:17a). Ông Phêrô gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ hết sức, hỏi hoài! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Ông xác quyết: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:17b). Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy" (Ga 21:17c). Rồi Ngài nói với Phêrô: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Ga 21:18).
Thánh Gioan nói rằng Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Chúa Giêsu bảo ông: "Hãy theo Thầy" (Ga 21:19).
Người Việt nói: "Quá tam ba bận". Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này.
Về tình yêu, các thánh có nhiều cách cảm nhận: "Yêu là chiến thắng Thiên Chúa" (Thánh Bênađô), "Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài" (Thánh Phanxicô Salê), "Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt" (Thánh Madeleine Barat), "Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng" (Thánh Augustinô), "Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con" (Thánh Phanxicô Assisi), "Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người" (Thánh Terese Hài Đồng Giêsu), "Tình yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu" (Thánh Thomas Aquinas), "Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy" (Thánh Inhaxiô Loyola). Và còn rất nhiều nữa...
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu. Xin Tình Yêu Kitô biến đổi tất cả chúng con nên hoàn thiện qua sự tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi lúc càng nên mới hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Khi yêu người ta có thể hạnh phúc hoặc đau khổ, thường là khổ nhưng vẫn phải có trách nhiệm – dù nhẹ hay nặng. Yêu là lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim.
Trái tim là trung tâm phân phối máu giúp cơ thể sống, cũng là trung tâm tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công giáo được mệnh danh là đức mến hoặc đức ái. Thánh Hirônimô phân tích: "Nếu ai không có đức ái thì dù có đức tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có tình yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có tình yêu".
Thánh Phaolô cũng đã xác định: "Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất" (1 Cr 13:13). Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là... "chuyện nhỏ". Tình yêu "nổi tiếng" thế giới là tình yêu của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thế nên Đại văn hào Victor Hugo đã định nghĩa: "Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu".
Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" (Cv 5:28).29 Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5:29). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa!
Ông Phêrô còn hùng hồn nói thẳng: "Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người" (Cv 5:30-32).
Thế rồi các Tông Đồ bị họ đánh đòn và họ cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5:41). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mộc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Người ta gọi đó là "thú đau thương". Cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của tình yêu. (Tv 30:2,4-6,11-13).
Tác giả Thánh Vịnh tuyên xưng: "Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con" (Tv 30:2).
Thật vậy, "từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống" (Tv 30:4). Do đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: "Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo" (Cv 5:5-6). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: "Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi".
Với lòng tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: "Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu" (Cv 5:11-13).
Thánh sử Gioan tường thuật về thị kiến: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc" (Kh 5:12). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ công thì được tưởng thưởng. Đó là công lý công minh và chính trực!
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!" (Kh 5:13). Cả bốn Con Vật thưa: "Amen". Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.
Tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh". Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" (Ga 21:5). Các ông trả lời: "Thưa không". Ngài bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá" (Ga 21:6). Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: "Chúa đó!" (Ga 21:7). Ôi chao! Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá! Nhưng bản tính Phêrô nhà ta là nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay. Thấy anh Hai làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Khi lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!" (Ga 21:10). Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" (Ga 21:12). Lúc này các ông biết rõ đó là Sư Phụ Giêsu rồi. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy.
Thánh Gioan cho biết đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" (Ga 21:15a). Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy" (Ga 21:15c). Ngài lại hỏi: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" (Ga 21:16a). Ông cũng đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:16b). Ngài nói: "Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy" (Ga 21:16c).
Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: "Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?" (Ga 21:17a). Ông Phêrô gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ hết sức, hỏi hoài! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Ông xác quyết: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21:17b). Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy" (Ga 21:17c). Rồi Ngài nói với Phêrô: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Ga 21:18).
Thánh Gioan nói rằng Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Chúa Giêsu bảo ông: "Hãy theo Thầy" (Ga 21:19).
Người Việt nói: "Quá tam ba bận". Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này.
Về tình yêu, các thánh có nhiều cách cảm nhận: "Yêu là chiến thắng Thiên Chúa" (Thánh Bênađô), "Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài" (Thánh Phanxicô Salê), "Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt" (Thánh Madeleine Barat), "Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng" (Thánh Augustinô), "Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con" (Thánh Phanxicô Assisi), "Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người" (Thánh Terese Hài Đồng Giêsu), "Tình yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu" (Thánh Thomas Aquinas), "Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy" (Thánh Inhaxiô Loyola). Và còn rất nhiều nữa...
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu. Xin Tình Yêu Kitô biến đổi tất cả chúng con nên hoàn thiện qua sự tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi lúc càng nên mới hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
50. Hiện ra
Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội. Cộng đoàn là những kẻ tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn thân của con người dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hoà con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các tông đồ phải đấu tranh, bị những người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.
Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài, làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi: “Về tất cả điều này chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng”.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”.
Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những người lãnh đạo dân Do thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng quyền hành của họ để xen mình vào việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo.
Khi các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.
Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là một lời kêu gọi con người nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi, của những sự xấu, của những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau thì các tông đồ đã chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải phóng cho con người. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo kiểu nói ngày nay được hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế Thiên Chúa được.
Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể nói là mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống như là con cái Thiên Chúa và như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được sự nâng đỡ để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ phải trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ các tông đồ được trình bày trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng các tông đồ, nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?
Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng cố đức tin cho các tông đồ.
Điều gì đã xảy ra cho các ngài? Từ đó Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng nhân hữu hiệu trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn thân của con người dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hoà con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các tông đồ phải đấu tranh, bị những người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.
Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài, làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi: “Về tất cả điều này chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng”.
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”.
Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những người lãnh đạo dân Do thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng quyền hành của họ để xen mình vào việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo.
Khi các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.
Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là một lời kêu gọi con người nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi, của những sự xấu, của những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau thì các tông đồ đã chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải phóng cho con người. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo kiểu nói ngày nay được hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế Thiên Chúa được.
Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể nói là mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống như là con cái Thiên Chúa và như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được sự nâng đỡ để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ phải trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ các tông đồ được trình bày trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng các tông đồ, nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?
Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng cố đức tin cho các tông đồ.
Điều gì đã xảy ra cho các ngài? Từ đó Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng nhân hữu hiệu trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.
51. Niềm vui Phục Sinh – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20- “Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:31)-rồi sau đó vị thánh sử lại từ biệt thêm một lần nữa- “Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga 21:25).
Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh “rắn mất đầu”. Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông. Tuy ngắn nhưng sao mông lung mịt mờ.
Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: “Tôi đi đánh cá.” Phêrô đã thốt lên câu nói đó.
Đi đánh cá là trở lại với nghề xưa-thực tập và tìm lại những gì mà một thời mình đã bỏ hết để theo Đức Giêsu. Đi đánh cá là để gợi nhớ kỷ niệm lần gặp gỡ đầu tiên với Thầy nơi biển hồ. Dường như Phêrô muốn níu lại một thoáng bóng hình đang tan biến.
Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: “Chúng tôi cùng đi với ông.” Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.
Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, “đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Gn 21:3). Hoá ra, dù có phương tiện đánh cá trong tay, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.
Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao “ra khơi” nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi “bên hữu bên tả”, và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô… “đầy tớ”?
Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: “Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa” (Ga 21:12).
Cuộc tao ngộ Thầy trò bên hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: “Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?”
Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: “Các ngươi trốn nơi đâu?” cũng không hề trách: “Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?”
Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Gn 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.
Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.
Trong yêu thương có tha thứ. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.
Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh “rắn mất đầu”. Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông. Tuy ngắn nhưng sao mông lung mịt mờ.
Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: “Tôi đi đánh cá.” Phêrô đã thốt lên câu nói đó.
Đi đánh cá là trở lại với nghề xưa-thực tập và tìm lại những gì mà một thời mình đã bỏ hết để theo Đức Giêsu. Đi đánh cá là để gợi nhớ kỷ niệm lần gặp gỡ đầu tiên với Thầy nơi biển hồ. Dường như Phêrô muốn níu lại một thoáng bóng hình đang tan biến.
Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: “Chúng tôi cùng đi với ông.” Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.
Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, “đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Gn 21:3). Hoá ra, dù có phương tiện đánh cá trong tay, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.
Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao “ra khơi” nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi “bên hữu bên tả”, và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô… “đầy tớ”?
Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: “Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa” (Ga 21:12).
Cuộc tao ngộ Thầy trò bên hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: “Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?”
Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: “Các ngươi trốn nơi đâu?” cũng không hề trách: “Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?”
Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Gn 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.
Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.
Trong yêu thương có tha thứ. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.
52. Sống lại
Đặc biệt tôi rất vui mừng khi thấy có rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi là các bạn trẻ đang hiện diện trong ngôi thánh đường này.
Có một sự thật – thật đến nỗi đã có nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm, là cốt lõi, là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì điều anh em tin thật là hão huyền… và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trên trần gian này”.
Tất cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây không phải là một cuộc thoáng hiện của Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng dùng bữa thân mật với các ông nữa. Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình với Phêrô: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?... Phêrô, con có yêu mến Thầy nhất không, hơn các người này không?”
Nghe đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi! Sao Chúa dại quá vậy? Chúa hết người để yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng si Phêrô, kẻ đã từng phản bội – kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt công chúng, Chúa có còn nhớ hay không?
Thánh Têrêsa thành Avila từng trách Đức Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể cũng không quá đáng. Phêrô là con người thế nào? Chúng ta đã quá rõ: Một tên ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng nảy, thuộc “tuýp bốc”, hay làm tàng, ta đây… được Đức Giêsu thương nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn, dạy dỗ đủ điều… lại còn được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả… Thế mà, khi có sự cố, hàn vi, biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử có gì đáng để Đức Giêsu yêu thương đến thế?
Đúng ra, trong số các tông đồ, nếu Đức Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn cả, hay là Natanaen – một con người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã từng khen).
Ngẫm nghĩ: tình yêu thật khó hiểu! Con tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi thường nghe Hồng Nhung hát bài “vẫn mãi hát lời tình yêu”của Dương Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả quyết: chỉ có Đức Giêsu mới thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: “Bạn đừng sợ Chúa, Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”
Con người Phêrô cộc cằn và đáng ghét đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính tình yêu Giêsu đã cảm hoá được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối cùng đã phải thốt lên: “Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy mà!”Đúng là “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Một lần bị nguyền rủa là Satan, ba lần chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ đây lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.
Điều gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy? Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều xót xa? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không rách?
Đó cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng và hầu như chỉ rao giảng và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình yêu để cảm hoá Phêrô.
Tình yêu của Đức Giêsu thật sự có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai, nếu người ta biết đặt niềm tin vào Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân và khép lại quá khứ để trở thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc – thị phi – hư danh – chóng qua này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con người hôm nay hy vọng.
Khám phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ. Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết, yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá trình cảm hoá từng bước, ngày qua ngày trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực cảm hoá của tình yêu Giêsu sẽ được chúng ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.
Ngày nay, trước xu hướng của tình yêu “thời mở cửa”, mọi cái đều phải quảng cáo, tranh thủ, tốc độ, chộp giật… Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó. Vả lại, từ tình yêu lãng mạn của “khung trời đại học”đến thứ tình yêu thực tế phũ phàng được cân, đo, đong, đếm bằng “cơm-áo-gạo-tiền”. Người trẻ chúng ta dù muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của tình yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với hàng trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất chấp đúng sai, miễn sao có lời.
Chẳng hạn, có một số bạn trẻ cho rằng tình yêu là “thứ trời cho”nên họ sẵn sàng biến thành thú “trò chơi”. Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có tình yêu, bạn đời họ cần phải là “nhà mặt phố, bố làm to”. Ngoài ra, còn có kiểu “tình hờ”, “tình cờ”, “tình cho không biếu không”… kết cuộc lối chịu chơi đó biến cuộc đời của những chàng trai, cô gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt!
Gút lại, những kiểu tình yêu phát xuất từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này, thực chất có mang lại tình yêu và hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ hôm nay hay không? Chúng ta hiểu: trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi vị, ngọt, bùi, đắng cay… Tuy nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động của con tim và cần có thời gian để cảm hoá, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ quí hơn vàng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do tình yêu mang lại. Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng; chọn lựa phải chắc chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau mới trọn vẹn và đến cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu hôm nay: lòng trung thành.
Các bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây dựng đời sống “văn minh tình yêu”cho chính mình và người khác? Trước ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang tin tưởng hay chối từ, nghi nan? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng, một lý tưởng để theo đuổi và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật sự là lý do cuối cùng, là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Dốc hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta cần xác tín một điều: “Thiên Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”. Và đối với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa.
Có một sự thật – thật đến nỗi đã có nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm, là cốt lõi, là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì điều anh em tin thật là hão huyền… và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trên trần gian này”.
Tất cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây không phải là một cuộc thoáng hiện của Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng dùng bữa thân mật với các ông nữa. Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình với Phêrô: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?... Phêrô, con có yêu mến Thầy nhất không, hơn các người này không?”
Nghe đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi! Sao Chúa dại quá vậy? Chúa hết người để yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng si Phêrô, kẻ đã từng phản bội – kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt công chúng, Chúa có còn nhớ hay không?
Thánh Têrêsa thành Avila từng trách Đức Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể cũng không quá đáng. Phêrô là con người thế nào? Chúng ta đã quá rõ: Một tên ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng nảy, thuộc “tuýp bốc”, hay làm tàng, ta đây… được Đức Giêsu thương nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn, dạy dỗ đủ điều… lại còn được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả… Thế mà, khi có sự cố, hàn vi, biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử có gì đáng để Đức Giêsu yêu thương đến thế?
Đúng ra, trong số các tông đồ, nếu Đức Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn cả, hay là Natanaen – một con người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã từng khen).
Ngẫm nghĩ: tình yêu thật khó hiểu! Con tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi thường nghe Hồng Nhung hát bài “vẫn mãi hát lời tình yêu”của Dương Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả quyết: chỉ có Đức Giêsu mới thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: “Bạn đừng sợ Chúa, Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”
Con người Phêrô cộc cằn và đáng ghét đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính tình yêu Giêsu đã cảm hoá được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối cùng đã phải thốt lên: “Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy mà!”Đúng là “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Một lần bị nguyền rủa là Satan, ba lần chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ đây lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.
Điều gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy? Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều xót xa? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không rách?
Đó cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng và hầu như chỉ rao giảng và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình yêu để cảm hoá Phêrô.
Tình yêu của Đức Giêsu thật sự có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai, nếu người ta biết đặt niềm tin vào Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân và khép lại quá khứ để trở thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc – thị phi – hư danh – chóng qua này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con người hôm nay hy vọng.
Khám phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ. Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết, yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá trình cảm hoá từng bước, ngày qua ngày trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực cảm hoá của tình yêu Giêsu sẽ được chúng ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.
Ngày nay, trước xu hướng của tình yêu “thời mở cửa”, mọi cái đều phải quảng cáo, tranh thủ, tốc độ, chộp giật… Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó. Vả lại, từ tình yêu lãng mạn của “khung trời đại học”đến thứ tình yêu thực tế phũ phàng được cân, đo, đong, đếm bằng “cơm-áo-gạo-tiền”. Người trẻ chúng ta dù muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của tình yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với hàng trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất chấp đúng sai, miễn sao có lời.
Chẳng hạn, có một số bạn trẻ cho rằng tình yêu là “thứ trời cho”nên họ sẵn sàng biến thành thú “trò chơi”. Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có tình yêu, bạn đời họ cần phải là “nhà mặt phố, bố làm to”. Ngoài ra, còn có kiểu “tình hờ”, “tình cờ”, “tình cho không biếu không”… kết cuộc lối chịu chơi đó biến cuộc đời của những chàng trai, cô gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt!
Gút lại, những kiểu tình yêu phát xuất từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này, thực chất có mang lại tình yêu và hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ hôm nay hay không? Chúng ta hiểu: trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi vị, ngọt, bùi, đắng cay… Tuy nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động của con tim và cần có thời gian để cảm hoá, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ quí hơn vàng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do tình yêu mang lại. Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng; chọn lựa phải chắc chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau mới trọn vẹn và đến cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu hôm nay: lòng trung thành.
Các bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây dựng đời sống “văn minh tình yêu”cho chính mình và người khác? Trước ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang tin tưởng hay chối từ, nghi nan? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng, một lý tưởng để theo đuổi và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật sự là lý do cuối cùng, là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Dốc hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta cần xác tín một điều: “Thiên Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”. Và đối với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam