Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1378967

VÂNG PHỤC NGAY CẢ CHẤP NHẬN CÁI CHẾT

Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô hữu.

I. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê

Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.

Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn” (Mc.14, 36).

Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.

II. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết

Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30), “không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước khi có Abraham, đã có Ta” (Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).

Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm người.” Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể nhận biết về Ngài.

Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa” (Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.

III. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến

Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.

Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.

Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Tại sao người công chính phải đau khổ và phải chết?

2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?

3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại?


 

32. Cuối đời – Lm. Vũ Đình Tường

Những người có đức tin mạnh mẽ thích cầu nguyện và mong được tham dự Thánh Lễ và các bí tích vào những ngày cuối đời. Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài cũng thích đến thánh đường. Ngài và các tông đồ tiến về đền thờ trong dịp lễ trọng, lễ ‘Bánh Không men và Vượt Qua’. Hai lễ này xảy ra cùng dịp- ‘Không Men’ vì dân Israelites dời bỏ đất Ai Cập, đến vùng đất chảy sữa và mật ong Chúa hứa ban. Họ ra đi trong hấpt ấp, vội vã. Vội vàng đến độ không đủ thời gian chờ cho bánh lên men trước khi nướng. Vượt Qua còn mang một í nghĩa trọng đại nữa vì Chúa dùng quyền năng rẽ sóng biển giúp họ vượt qua biển an toàn. Vượt Qua còn mang í nghĩa siêu nhiênlà vượt qua thời gian nô lệ tiến đến thời gian làm con cái Chúa, vượt qua bóng tối của sự chết tâm linh, thiếu tự do tôn giáo, quyền làm người để tiến đến cuộc sống mới tự do, tương lai huy hoàng.

Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài và các môn đệ biết rõ nhà nước đang tìm cách giết Ngài. Các môn đệ Đức Kitô biết rõ điều này và các ông đã phản đối việc Đức Kitô về đền thánh khi các ông nói: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy. (Ga 10,16)

Đức Kitô còn nói rõ hơn khi người phụ nữ đến xức dầu chân Ngài bằng chai dầu thơm đắt giá. Một số người ngồi cùng bàn cho rằng phụ nữ đó kia phí phạm chai dầu đắt giá tốt hơn nên dùng tiền đó bố thí cho người nghèo khó. Đức Kitô biết họ nghĩ thế Ngài lên tiếng bênh vực cô ta và nói rõ lí do: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng tôi” (Mc 14,8)

Đức Kitô trong những ngày cuối đời Ngài xem ra có vẻ bận rộn hơn ngày thường vì còn một số việc Ngài cần làm xong trước khi bị bắt. Đó là việc chuẩn bị bữa tiệc cuối cùng được biết đến là ‘Bữa Tiệc Li’. Ngài đã âm thầm chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết cho ngày lễ, từ nơi chốn đến thực phẩm, phòng ốc và ngay cả phương tiện di chuyển. Các môn đệ dù sống cạnh bên vẫn không hề hay biết chi cho việc Ngài âm thầm chuẩn bị. Họ chỉ biết làm điều Đức Kitô sai bảo và mọi sự đã xảy ra đúng như những gì Ngài chuẩn bị.

Người ta thường chuẩn bị cho ngày chết. Đức Kitô không chuẩn bị cho ngày chết nhưng chuẩn bị cho ngày sống lại. Bữa Tiệc Li là bữa tiệc chuẩn bị cho sự sống lại vinh quang. Tiệc Li có thể hiểu là li trần, dời khỏi trần thế. Dời khỏi trần thế không có nghĩa là chết mà là vượt qua trần thế đến cuộc sống thanh bình muôn thuở. Nếu Tiệc Li không là tiệc sống lại thì không thể giải thích cho việc lập Bí Tích Thánh Thể. Đức Kitô từ lời nói đến việc làm luôn mang í nghĩa trọng đại, vượt trí tưởng. Trong bữa Tiệc Li Đức Kitô cầm bánh và rượu dâng lời chúc tụng Chúa Cha rồi nói cùng các môn đệ;

Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Ta (Lc 22,19)

Nếu không có sự sống lại thì việc lập bí tính Thánh Thể không có mục đích. Đức Kitô biết rõ Ngài sẽ chết cách đau khổ và Ngài sẽ sống lại vinh quang. Cử hành bí tích Thánh Thể là tuyên xưng việc Chúa sống lại và đoàn liên kết cùng Đức Kitô trong việc bẻ bánh.

Kitô hữu không chuẩn bị chết lành như thường nghe nói nhưng chuẩn bị để gặp Đức Kitô, đoàn tụ cùng Đức Kitô. Theo í nghĩa đó Kitô hữu chuẩn bị cho sự sống lại, cho cuộc sống trường sinh bên cạnh Đức Kitô. Kitô hữu chuẩn bị chết bình an trong Chúa. Lễ an táng là an táng thân xác còn tâm linh thuộc về Chúa nên các bài đọc và lời cầu trong lễ an táng luôn hướng về sự sống lại, sống trường sinh.


 

33. Niềm vui rực sáng – Lm. Vũ Đình Tường

Con người quả có nhiều cách khác nhau để diễn tả niềm vui. Cách thông dụng nhất là lời nói. Dùng ngôn từ nói lên lời chúc tụng, tung hô. Để niềm vui được vui hơn, người ta mượn tràng pháo tay kèm theo lời cổ võ. Theo sau tràng pháo tay là những tiếng cười hoan lạc. Đôi khi còn kèm theo bài ca vui, nhảy múa diễn tả hết tâm tình, bộc trực niềm hạnh phúc. Thời giờ dư giả, tài chánh thảnh thơi hơn người ta còn tổ chức bữa tiệc mừng, cụng li, chung chén, kéo dài niềm vui. Khi có tiệc mừng là có xuất hiện y phục thời trang mới. Cách ăn mặc lịch sự của thực khách, cử chỉ trang trọng mọi người dành cho nhau. Bên cạnh đó còn có trang hoàng màu sắc, sặc sỡ, từ ngoài ngõ đến nhà cửa, kể cả mọi người xa, gần, đều là những dấu chỉ rõ ràng nhất của tâm tình chia sẻ niềm vui. Đây là những cách diễn tả niềm vui.

Hôm nay Phúc âm ghi lại một hình thức diễn tả niềm vui nội tâm hoàn toàn khác lạ so với cách thông thường. Trên đường vào thành thánh Giêrusalem, đám đông dân chúng bất ngờ gặp Đức Kitô họ vui mừng quá đỗi. Vì không chuẩn bị hay nói rõ hơn không ai biết để chuẩn bị nên người ta sáng chế ra cách bày tỏ niềm vui dạt dào trong tâm hồn. Một người lên tiếng Hoan Hô Con Vua Đavít. Hoan hô Đấng đến Nhân Danh Chúa. Một tiếng cất lên, hai ba tiếng hoà nhịp vang vọng và rồi cả con đường, mọi nghõ ngách đều chung ca bài hoan hô Con Vua Đavít. Nhà chức trách thấy thế lên tiếng can ngăn. Họ cũng không thể ngờ được phản ứng mãnh liệt của đám đông. Họ không thể dự đoán Đức Kitô xuất hiện đột ngột như thế. Họ lên tiếng ngăn cản, cấm đoán. Cấm sao được sức mạnh của đại chúng, ngăn sao được tiếng hát vui mừng. Áp chế sao nổi bước chân nhảy nhót diễn tả niềm vui. Một cành lá làm cờ, hai cành lá làm cờ, ba cành lá làm cờ và cứ thế cành lá, cành lá biến thành rừng cây di động. Rừng cây đủ sắc thái của mọi cành lá bên đường tung bay, múa may theo nhịp phất của đôi tay. Đâu đó có người không tiếc tấm áo mới, cởi áo lót đường đón Con Vua Đavít. Mình trần, tay cầm cành lá đón chào, đám đông ca tụng Ngài là vua. Vị quân vương của đại chúng, quân vương không tiến vào thành bằng vó ngựa và cung tên nhưng cỡi lừa con, chân bước trên thảm vải áo và đi giữa rừng cành lá vẫy chào. Cảnh chào đón thật đơn sơ, giản dị nhưng chan chứa tình người, lòng ái mộ, cảm mến hết sức chân tình. Sáng kiến bẻ cành lá vẫy chào để lại cho chúng ta một ngày lễ kính với tên đơn sơ, mộc mạc đến quê mùa, nhưng lại diễn tả tâm tình rất chân thật của đám đông xưa may mắn trên đường đi gặp được Đức Kitô Con Vua Đavít. Ngày lễ kính đó chính là ngày lễ lá. Ai không biết được lịch sự của sự việc nghe sẽ chẳng hiểu tại sao lại gọi là lễ lá.

Đám đông đâu biết rằng họ là những người đầu tiên chào đón vinh quang, vinh danh Con Chúa Cứu Thế. Vinh Danh đó không lộ ra ngay trong ngày Ngài tiến vào thành thánh Giêrusalem. Vinh Danh đó hé mở rồi ẩn mất mãi cho đến ngày Ngài vinh quang sống lại từ cõi chết. Đây mới là chiến thắng thật, vinh quang thật và là niềm vui thật cho những tâm hồn thiện tâm.


 

34. Chúa Giêsu lên Giêrusalem

(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)

Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.

Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giêricô.

Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).

Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa.

Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).

Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.

Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.

Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.

Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.

Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.

Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.

Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.


 

35. Tại làm sao Chúa chết?

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?

Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.

Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14, 1); “tìm chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14, 55), chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu: “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14, 61). Chúa Giêsu đáp:“Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây” (Mc 14, 61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” (Mc 14, 62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14, 64).

Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15, 1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.

Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp: “ Ông nói đúng” (Mt 15, 2). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.

Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15, 9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" (Mc 15, 12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập giá” (Mc 15, 15).

Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).

Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.

Như vậy, đối với câu hỏi, “tại sao Chúa chết? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.

Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.

Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).

Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.

Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.


 

home Mục lục Lưu trữ