Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 88
Tổng truy cập: 1379688
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC TRÊN TÌNH THƯƠNG
Xây dựng đạo đức thánh thiện trên tình thương và công lý
Câu hỏi gợi ý:
- Để giúp mọi người sám hối, Gioan Tẩy giả khuyên mỗi loại người một lời khuyên khác nhau. Tại sao vậy? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều ấy?
- Công lý và tình thương có liên hệ gì với nhau? Tình thương không được xây dựng trên công lý có phải là đức ái kitô giáo không? Tại sao?
- Sám hối để đón Chúa đến đòi hỏi phải có sự thay đổi: giữa thay đổi quan niệm và thay đổi thái độ hay hành động, cái nào quan trọng và nền tảng hơn? Cần phải thay đổi quan niệm nào và thay đổi thế nào?
Suy tư gợi ý:
- Công lý và tình thương
Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối để dọn đường cho Chúa đến. Khi có người muốn đi vào cụ thể của việc sám hối, Gioan đã tùy theo đối tượng hỏi mà đề ra hai loại việc làm cụ thể. Đối với những người trình độ tâm linh còn thấp, ông đề nghị những việc làm liên quan đến việc thực hiện công bằng hay công lý: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”, “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Đối với những người đã thực hiện được sự công bằng hay công lý trong đời sống, ông đưa họ lên một mức độ trọn lành cao hơn, đó là tình thương hay bác ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.
Công lý và tình thương hay công bằng và bác ái là hai tinh thần căn bản của Kitô giáo. Hai đức này phải đi đôi với nhau thì mới thật sự là tinh thần Kitô giáo. Nghĩa là công lý Kitô giáo phải là thứ công lý có tình thương, và tình thương Kitô giáo phải là tình thương được xây dựng trên nền tảng công lý. Nói theo ngôn ngữ thông thường là tình và lý phải luôn đi đôi với nhau: lý phải có tình, mà tình phải có lý.
- Tình thương phải có nền tảng là công lý, công lý phải được xây dựng trên sự thật
Tuy nhiên, còn một điều hết sức căn bản nữa của tinh thần kitô giáo, đó là tinh thần tôn trọng chân lý hay sự thật. Trong Tin Mừng Matthêu, Đức Giêsu cho biết: “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật” (Mt 23,23). Sự thành thật ở đây chính là tinh thần tôn trọng chân lý, sự thật, nghĩa là: “Hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Do đó, đạo đức hay thánh thiện mà thiếu tôn trọng một trong ba điều này, là “công lý, tình thương và sự thành thật”, thì chỉ là thánh thiện hay đạo đức một cách què quặt.
Tuy nhiên, trong ba điều này thì sự thành thật hay tinh thần tôn trọng sự thật là nền tảng cho cả hai điều kia. Thiếu tinh thần tôn trọng sự thật thì không thể có công lý và tình thương đích thực. Trong ba điều quan trọng ấy, tình thương là cao cả nhất – vì là bản chất của Thiên Chúa (x.1Ga 4,8.16) – nhưng tình thương chỉ là tình thương đích thực khi nó được xây dựng trên nền tảng công bình hay công lý. Tình thương có nền tảng như thế mới có thể là đức ái kitô giáo. Chính vì thế, đối với những người tội lỗi, ông Gioan chỉ đòi hỏi họ giữ được sự công bằng mà thôi. Với người bình thường – giả thiết là đã thực hiện sự công bình – ông mới khuyên họ thể hiện tình yêu thương tích cực với đồng loại, đặc biệt với người nghèo khổ.
- Sự phán xét của Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng, Gioan cho biết Đấng Mêsia đến sau ông có nhiệm vụ giáo dục, thánh hóa mọi người: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Ngoài ra, Ngài còn có nhiệm vụ sàng sẩy, thanh lọc, tức phán xét và thưởng phạt mọi người nữa: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.
Mục đích của công việc giáo dục, thánh hóa của Ngài chắc chắn là biến con người trở thành những con người hoàn hảo: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Và con người hoàn thiện theo quan niệm của Ngài ắt phải là người thực hiện được “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật” (Mt 23,23). Nếu mục đích của việc giáo dục, thánh hóa của Ngài là như thế, ắt tiêu chuẩn để xét đoán, thưởng phạt của Ngài cũng phải dựa trên ba điều căn bản ấy. Thật vậy, Tin Mừng Matthêu cho ta biết tiêu chuẩn ấy là chúng ta có đối xử với tha nhân của mình bằng tình yêu hay không (x. Mt 25,31-46). Tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi là phải là thứ tình yêu được xây dựng trên nền tảng sự thật và công lý.
- Sám hối một cách nền tảng là thay đổi quan niệm
Các bài Tin Mừng trong mùa Vọng đều ít nhiều nhấn mạnh đến tinh thần sám hối: Gioan “kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3,3). Sám hối đòi hỏi một sự thay đổi cụ thể: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Điều quan trọng nhất mà chúng ta phải thay đổi chính là quan niệm về sự thánh thiện hay lòng đạo đức của chúng ta. Rất nhiều kitô hữu quan niệm chưa đúng về điều này, nên dù rất khao khát và quyết tâm nên thánh, nhưng trong thực tế chỉ là thánh trước con mắt sai lầm của một số người, chứ không phải là thánh trước con mắt của Thiên Chúa.
Hồi nhỏ, tôi có quen biết một bà sống độc thân. Bà rất siêng năng đọc kinh, đi lễ, xưng tội, coi đó như là điều quan trọng nhất trong đời. Vì thế, nhiều người coi bà là một người rất đạo đức. Có điều là bà rất khó tính, con cháu dù lớn hay nhỏ đều cảm thấy không thích ở gần bà. Mặc dù con cháu ruột thịt của bà rất đông và nhiều đứa rất nghèo khổ, nhưng trước khi bà mất, bà dùng hết tiền của và tài sản bà có để xin lễ, không để lại cho đứa cháu nào lấy một đồng. Bà lo sợ sau khi chết, con cháu sẽ không có đứa nào xin lễ cho bà, nên bà phải tự lo lắng lấy chuyện ấy. Thấy vậy, tôi tự hỏi: không biết cả tài sản của bà mà đem xin lễ như thế có thật sự lợi ích cho phần rỗi linh hồn của bà không? Xét cho cùng thì bà chỉ là một người ích kỷ: bà chỉ nghĩ tới phần rỗi linh hồn. hạnh phúc đời sau của bà, chứ không hề yêu thương gì con cháu. Con cháu ruột thịt của bà mà bà không yêu thương thì bà còn yêu thương được ai? làm sao bà yêu thương được Đấng vô hình như Thiên Chúa? Bà hành động như thế chính vì bà có một quan niệm sai lầm về đạo đức và thánh thiện, mà đáng buồn thay không ai có đủ thẩm quyền giúp bà thay đổi quan niệm ấy!
- Đạo đức hay thánh thiện phải được xây dựng trên chân lý, công lý và tình thương
Hiện nay, chắc hẳn vẫn có những kitô hữu quan niệm đạo đức theo kiểu của bà cụ trong câu chuyện trên. Thiết tưởng chúng ta cần phải quan niệm cho đúng về sự đạo đức, thánh thiện thì mới trở nên đạo đức, thánh thiện đúng nghĩa được. Đạo đức hay thánh thiện phải được xây dựng trên nền tảng vững chắc là chân lý, công lý và tình thương, chứ không phải trên những lễ nghi hay những hình thức của tôn giáo. Làm sao ta có thể nên giống Đức Giêsu, Đấng “muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ” (Hs 6,6; Mt 9,13), đang khi ta lại chủ trương coi hy lễ quan trọng hơn cả lòng nhân?
Thánh Gioan Kim Khẩu viết: “Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói “Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn”… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!” (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2).
Để đón Chúa đến, thiết tưởng điều quan trọng nhất là chúng ta cần quan niệm cho đúng về sự thánh thiện. Đạo đức hay thánh thiện kitô giáo phải được xây dựng trên “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật” (Mt 23,23), tức “chân lý, công lý và tình thương”.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu luôn coi trọng tình thương và cách xử sự giữa con người với nhau hơn cả những nghi thức tôn giáo (x. Mt 6,23-24; 9,13). Xin giúp con thay đổi quan niệm giống như Đức Giêsu để đón Ngài đến trong tâm hồn con như một vị Thầy, một gương mẫu thánh thiện cho cuộc đời của con. Thật là trớ trêu khi con muốn nhận Ngài là Thầy mà lại không muốn quan niệm mọi sự giống như Ngài.
72. Suy niệm của Trầm Thiên Thu
Mùa Vọng phủ màu Tím, nhưng không phải là “sắc tím buồn” như Mùa Chay, mà là “sắc tím thủy chung” trong khoảng mong đợi Đấng Thiên Sai đến cứu độ nhân loại.
Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay được mệnh danh là Chúa Nhật Hồng. Nhưng để phân biệt, Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete), Chúa Nhật IV Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật Mừng (Laetare).
Chúng ta vui vì được Chúa Giêsu giải phóng khỏi ách tội lỗi, vì được Ngài cứu độ. Với tâm tình đó, Ns Đức Huy bày tỏ: “Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai, Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi”. Niềm hy vọng ấy không mơ hồ, mà chắc chắn sẽ được như ý muốn!
CHIA SẺ VUI MỪNG
Nỗi buồn thì người ta thường muốn giữ kín, chỉ muốn ngồi mình yên (một mình) mà gặm nhấm nó, nhưng niềm vui thì mấy ai mà giấu kín trong lòng, nghĩa là người ta muốn “khoe” niềm vui đó với người khác. Như vậy cũng là một dạng chia sẻ.
Ngôn sứ Xôphônia mời gọi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!” (Xp 3:14). Tại sao vậy? Lý do đơn giản mà kỳ diệu: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Do đó mà vào ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời” (Xp 3:16). Đừng hoang mang hoặc run sợ vì Thiên Chúa của chúng ta đang ngự giữa chúng ta, chính Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng.
Ngôn sứ Xôphônia xác định: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa” (Xp 3:17-18). Đó cũng là lời nói với chúng ta. Quả thật, chúng ta vui mừng có Chúa, và Ngài cũng vui mừng ở giữa chúng ta để chia vui sẻ buồn với chúng ta, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Niềm vui tột đỉnh, hạnh phúc tuyệt vời!
Trong niềm vui đó, ngôn sứ Isaia quả quyết: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Is 12:2). Và ông cũng nói với chúng ta: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Ngài, vĩ nghiệp của Ngài, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Ngài siêu việt” (Is 12:3-4). Chúng ta phải thể hiện cho mọi người biết niềm vui đang rạo rực trong mình: “Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Hãy reo hò mừng rỡ, vì Đức Thánh của Ítraen quả thật là vĩ đại!” (Is 12:5-6).
Người ta nói rằng “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, thế nhưng chúng ta đang có những niềm vui “trùng lai”. Niềm vui nối tiếp điều mừng, Thánh Phaolô cũng chẳng giấu được nên phải lặp đi lặp lại lời động viên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4). Nhưng phải thể hiện niềm vui đó qua cách sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi” (Pl 4:5), vì Chúa đã gần đến.
Có lẽ biết chúng ta còn e dè nên Thánh Phaolô tiếp tục khuyến khích: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7). Niềm vui của Kitô hữu khác hẳn niềm vui của người không có niềm tin tôn giáo. Dù thế nào cũng vẫn vui, vui vì có Chúa, vui cả ngay trong nỗi buồn, vui vì luôn hy vọng và tin tưởng.
CHIA SẺ CÁCH SỐNG
Nói hay mà làm không hay thì cũng vô ích. Gioan Tẩy Giả, con ông Dacaria, mệnh danh là Tiếng-Hô-Trong-Hoang-Địa, nhưng ông là người đầy uy tín. Đám đông hỏi ông Gioan rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Ông trả lời ngay: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” (Lc 3:11). Ôi, khó quá! Ông này đúng là dị nhân chính hiệu “con nai vàng”. Ấy thế mà vẫn có những người thu thuế đến chịu phép rửa, và tôn ông Gioan là Thầy. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3:13). Ngay cả binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3:14).
Ông Gioan muốn chia sẻ cách sống tốt với mọi người. Đó là sống công bình, vì mọi người có thể hiện công lý thì xã hội mới khả dĩ có nền hòa bình đích thực. Thể hiện công lý là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của người khác. Những điều ông Gioan kêu gọi ngày xưa thì ngày nay là những điều thuộc lĩnh vực Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hồi đó, dân đang trông ngóng Đấng Cứu Thế, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: “Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia?” (Lc 3:15). Nhưng ông xác định với mọi người rạch ròi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:16-17).
Ông Gioan nhận mình không xứng đáng “cởi quai dép” chứ đừng nói chi là “xách dép” cho Chúa Giêsu. Ông biết người và biết ta nên ông khiêm nhường. Chính ông cũng mong đợi Đấng đến sau ông, người đó mới là Đấng Thiên Sai.
Mong chờ ai đó vì chúng ta yêu mến người đó. Mong đợi Chúa thì chúng ta cũng phải yêu mến Chúa. Nếu không thì… “kẹt” lắm! Thật vậy, Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22).
Lạy Thiên Chúa, chúng con vui mừng biết bao vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp sửa đến với chúng con, để chia sẻ vui buồn với chúng con, để thông phần số phận với chúng con, và dạy chúng con những điều tốt lành. Xin giúp chúng con biết yêu mến Con Chúa là hiện thân của Chúa, dám sống “khác người” và chia sẻ mọi thứ với tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
73. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.
PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC TRONG LỜI RAO GIẢNG CỦA GIOAN
Phương diện đạo đức trong lời rao giảng của Gioan (cc. 10-14) được trình bày dưới hình thức đối thoại. Cả ba lần cũng một câu hỏi được lặp lại: “Phải làm gì?”. Đâu là những thay đổi đời sống cụ thể sẽ diễn tả ra bên ngoài sự hối cải sâu xa? Lời đáp của diễn giả đáng lưu ý ở hai điểm. Một đàng nó bao gồm những hành vi xã hội của con người và không đòi hỏi hy lễ đền tội, cũng như thực hành khổ chế; đàng khác, phải giúp đỡ những người túng thiếu, phải trung thực và công bình trong nghề nghiệp của mình. Đó là những đòi hỏi vượt quá luật Môsê và bắt buộc tất cả mọi người, người không cắt bì cũng như người Do Thái. Sự cần thiết phải hoán cải có tính cánh phổ phát, cũng như ơn cứu độ được trao ban (x. 6); điều có ý nghĩa là chính đám đông hiện diện trong hoạt cảnh này.
Cũng cần ghi chú thêm là những đòi hỏi này không được đặc biệt tô điểm lời rao giảng có tính cánh chung ở các câu 7-9. Gioan không loan báo gì về sự đảo lộn các cơ cấu xã hội (so sánh với Chúa Giesu ở Lc 6,20-26); ông không đòi hỏi các người thu thuế đoạn tuyệt với người Rôma xâm lược mà họ đang cộng tác, cũng không bảo các người lính Do Thái phục vụ trong đạo binh của Hêrôđê phải đào ngũ. Ông không kêu mời ai bỏ tất cả mọi sự để theo ông; điều mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi một bậc vị vọng ở La 18,22 sẽ triệt để hơn! Đối với Luca, việc chia sẻ trở lại điều này. Ở đây chỉ cần để ý là ông Giakêu – người thu thuế (Lc 19,8) hứa với Chúa Giêsu sẽ đền bù những thiệt hại cho người khác – chính là điều Gioan đòi hỏi những người anh em mình – và dâng tặng cho người nghèo khó phân nửa gia tài của mình – đó là lời đáp của Gioan cho đám đông nghĩa là cho tất cả mọi người.
Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức…
Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.
Cuối cùng hai động từ tiêu biểu cho diễn từ của vị Tẩy Giả –khuyến dụ– đó sẽ là một hoạt động đặc biệt của các thừa sai Kitô giáo, Cv 2,40; 15,22 – và nhất là loan báo Tin Mừng/Phúc Âm hóa. Như thế, trước cặp mắt của Luca, vị Tiền hô khai mạc việc rao giảng trong thời đại cuối cùng. Nhưng việc Phúc Âm hóa này, về mặt hình thức, không có nội dung, trong khi mà ở thời đại Kitô, Tin Mừng thường quen được xác định rõ: Tin Mừng về Vương Quốc (Lc 4,43; 8,1; 16,16; Cv 8,12) hoặc, sau Phục Sinh, Tin Mừng về Chúa Giêsu như Đấng Kitô và Đức Chúa (Cv 5,42; 11,20). Khi không nói Tin Mừng về Vương Quốc qua môi miệng của vị Tiền hô, Luca chứng tỏ rằng Gioan rao giảng khác với Chúa Giêsu; ông dẫn vào kỷ nguyên mới, không thuộc về lĩnh vực của Chúa Giêsu. Và nếu không có vấn đề đảo lộn các giá trị trong chương trình của vị Tẩy Giả, chính bởi vì việc đảo lộn này được gắn liền cách nội tại với việc Thiên Chúa đến.
74. Hãy sinh những hoa quả hối cải
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô.
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Bản văn đọc hôm nay là trích phần đầu của phần 2 của Tin Mừng Lc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (3,10-14);
2) Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (3,15-17);
3) Tóm kết sứ vụ Gioan (3,18).
Nếu muốn đầy đủ cho phần rao giảng của Gioan, thì lấy từ câu 7. Chúng tôi sẽ trình bày khởi đi từ c. 7 này.
3.- Vài điểm chú giải
– Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra từ đầu thế kỷ ii trước CN, trong Do Thái giáo Paléttina, đã kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
– Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn tôi”. Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (HL. erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
– tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quì xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
– phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, HL. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong [Thần] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).
– Tay Người cầm nia rê sạch lúa (17): Cái rê (ptyon, winnowing-shovel) là một dụng cụ giống cái xẻng, người ta dùng để rê lúa (“làm sạch thóc bằng cách đổ thóc từ trên cao rơi từ từ theo hướng gió để bụi và hạt lép bay ra hết”, Đại từ điển tiếng Việt), còn thóc thì rơi xuống thành đống (x. Is 30,24). Hình ảnh này được dùng để chỉ việc Đấng quyền thế hơn phân loại loài người theo giá trị của họ.
– thóc mẩy thì thu vào kho lẫm (17): Đống thóc tượng trưng những người sẽ được cứu bởi vị thẩm phán đang đến. Công việc phân loại của Người được diễn tả bởi hai hành động, “rê sạch” và “thu vào kho”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Gioan đến như nhà rao giảng sự thống hối và như sứ giả niềm vui. Ông ra sức giải thích cho dân chúng biết rằng sự hoán cải cần được cụ thể hóa bằng những hoa trái xứng đáng (3,7-9). Và ông dạy họ những việc cụ thể phải làm cũng như về Đấng đang đến. Ông giới thiệu hoàn cảnh trong tính nghiêm túc và trong đặc điểm cứu độ, ông không giấu giếm gì cả. Nguyện vọng duy nhất của ông là chuẩn bị cho dân đón nhận ơn cứu độ, ơn này đang hiện diện nơi Đức Giêsu Kitô.
Các hoa trái hối cải tuyệt đối cần thiết, ta không thể loại trừ hay trì hoãn. Với những lời lẽ hết sức mạnh mẽ, Gioan ngỏ lời với những người muốn hoán cải. Họ đến với ông bởi vì họ coi trọng lời ông loan báo và muốn nhận phép rửa. Gioan bảo họ rằng chỉ có ý muốn mà thôi thì không đủ; còn cần phải có hoa trái nữa, tức là những hành động. Thiên Chúa muốn có những hành động này. Ai không làm những hành động này, thì sẽ phải gánh lấy cơn thịnh nộ của Ngài (3,7), tức là hậu quả của một chọn lựa đi ngược lại ý Ngài muốn. Phải có một sự hoán cải thực thụ. Dĩ nhiên phải hoán cải con tim, bằng cách hoàn toàn quay hướng về Thiên Chúa. Nhưng sự hoán cải không chỉ dừng lại ở bình diện nội tâm, thiêng liêng. Nó phải được diễn tả ra trong lối xử sự bên ngoài. Người ta không thể tránh né lối sống bên ngoài bằng cách nại đến các duyên cớ nào đó. Nại đến tư cách con cháu tổ phụ Abraham cũng không ích gì. chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng nên cũng phải luôn tìm cách sinh những hoa quà xứng với lòng hối cải.
* Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (10-14)
Những người được Gioan ngỏ lời với không chỉ muốn nghe nói về cáh hoa quả cách chung chung; họ muốn biết cụ thể họ phải làm gì. Gioan không mời họ thực hành một việc đạo đức hình thức hay tham dự một nghi lễ thống hối nào; ông yêu cầu họ làm một việc cụ thể và triệt để nào đó. Ông trả lời họ không quanh co. Mọi hoa trái hối cải ông đề nghị đều liên hệ đến cách xử sự với người đồng loại. Sự hoán cải, nghĩa là việc quay về với Thiên Chúa, phải được diển tả ra thực sự qua cách thức xử sự với anh chị em mình. Sự hoán cải đòi hỏi sự chia sẻ huynh đệ và từ khước mọi thứ bất công. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (3,11). Lời yêu cầu này được đề nghị không những cho tất cả những ai đang sống trong sự sung túc, để họ sớt bớt phần dư thừa, nhưng còn được gửi đến tất cả những ai có thứ gì hơn mức thực sự cần thiết. Ngay người chỉ có hai áo cũng phải cho một cái và bằng lòng chỉ còn một cái, nếu người thân cận không có cái nào. Đứng trước nhu cầu của người khác, người ta chỉ được giữ lại điều gì mình cần mà thôi.
Người thu thuế và lính tráng cũng đến với Gioan. Đây là hai hạng người bị khinh bỉ và căm ghét, bởi vì họ thường lợi dụng địa vị mà thủ lợi. Gioan không mời họ bỏ nghề, nhưng kêu gọi họ loại trừ những hình thức xử sự bất công khi hành nghề. Người thu thuế có thể lợi dụng địa vị để đòi mức thuế cao hơn mức đã quy định để làm giàu. Những người lính có thể dùng vũ lực để ép người khác làm theo ý mình, để gia tăng đồng lương. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là áp bức người khác để có thêm tiền bạc. Hoán cải, quay về với Thiên Chúa, không phải là chuyện thực hiện trong trừu tượng, nhưng phải được thể hiện ngay trong lãnh vực nghề nghiệp.
Sau này, Đức Giêsu còn yêu cầu mạnh hơn nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
* Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (15-17)
Một yếu tố tiêu biểu của sự cao cả của Gioan là đánh giá đúng đắn vị trí của ông. Ông đến theo bài sai của Thiên Chúa và ông hành động hết sức cương quyết. Do đó, ông đã gợi lên nới dân chúng ấn tượng là ông chính là Đấng Cứu thế thời cuối cùng, Đấng Mêsia. Ông tuyên bố rằng ông chỉ là người dọn đường, và dứt khoát hướng người ta đến Đấng đến sau ông. Ngài cao cả hơn ông vô cùng, không sao sánh ví được. Tương quan giữa ông và Đấng ấy không thể mô tả cách nào cho xứng hợp, cho dù là bằng hình ảnh “nô lệ-chủ nhân”. Gioan không xứng đáng làm một việc phục vụ thấp hèn nhất cho Đấng đang đến. Bằng cách đó, vị ngôn sứ cao cả này đã cung cấp cho chúng ta một ý tưởng về sự cao trọng của Đức Giêsu. Ngay cụ Simêôn cũng đã loan báo Ngài như là Đấng làm cho người này được nâng dậy, còn kẻ khác bị té ngã (2,34). Gioan đã mô tả cách hành động của Đấng ấy theo hai cách: Người làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa; Người thu gom lúa và đốt vỏ trấu. Đức Giêsu có quyền thông ban thực tại cao hơn và quý hơn: Thần Khí, quyền năng sống động vĩnh hằng của Thiên Chúa, đối lập với mọi thứ bất lực, yếu đuối và mong mạnh tạm bợ. Ai không sẵn sàng với Thần Khí mang sự sống, thì phải chịu phép rửa trong lửa tiêu diệt sự sống. Đức Giêsu quy tụ lại với Người, trong sự hiệp thông vĩnh cửu, lúa (thóc mẩy), tức là những ai phù hợp với những tiêu chí nhân lành của Người; Người loại trừ và đẩy vào nơi bị dày vò muôn đời những người khác, những người trống rỗng và không có giá trị.
* Tóm kết sứ vụ Gioan (18)
Gioan đã “loan báo Tin Mừng” cho dân chúng? Như vậy ông là người đầu tiên loan báo Tin Mừng (Wink). Nhưng nếu theo bản văn Lc, thì dường như thiên thần Gabiel mới là vị đầu tiên loan báo Tin Mừng (1,19)! Thật ra, có lẽ nên cho rằng đây là một từ tác giả dùng để “bình” hoạt động của Gioan, là hoạt động khuyến khích người ta quay về với Thiên Chúa. Tác giả không cho thấy là có lần nào Gioan đã rao giảng về “Nước Thiên Chúa”, bởi vì ngài dành công việc này cho Đức Giêsu. Từ đó có thể nói cho dù hoạt động của Gioan là giai đoạn chuẩn bị cho giai đoạn Đức Giêsu, lời rao giảng của ông vẫn không giống với lời rao giảng của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Gioan không thể loan báo một ơn cứu độ dễ dàng cho mỗi người, dù họ muốn hay không, dù họ sẵn sàng đón lấy hay không. Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng không áp đặt cho loài người chúng ta, bất kể tình trạng cá nhân chúng ta hoặc ngược lại với ý muốn của chúng ta. Bởi vì Gioan biết ý nghĩa của việc Đức Giêsu đến và biết điều gì liên hệ, ông xứng đáng vừa là sứ giả niềm vui vừa là nhà rao giảng việc hoán cải.
5.- Gợi ý suy niệm
- Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô. Các thính giả của Gioan đã hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”, và vị Tẩy Giả đã chỉ dẫn cho mỗi hạng người một cách thức cụ thể để sống hoán cải. Có người thì phải tôn trọng công bình, có người được đề nghị chia sẻ, có người thì được mời tha thứ những xúc phạm, hoặc sống lương thiện trong nghề nghiệp của mình.
- Người ta có thể yêu cầu gì nơi những con người và những dân tộc đang sống và hầu như đang chết ngộp trong sự phồn vinh phú túc, trong khi hàng triệu người đang sống cũng trên trái đất này đang chết đói? Với quyền gì mà có những người được bảo rằng họ được duy trì và đảm bảo sự phú túc của họ, trong khi những người khác thậm chí không có những cái hết sức cần thiết? Tình trạng này là một sỉ nhục, chế nhạo lời kêu gọi hoán cải theo Tin Mừng. Cho dù cá nhân không có nhiều điều kiện để hành động, người ta cũng không được chấp nhận tình trạng ấy. Họ phải làm hết sức mà chia sẻ cách huynh đệ.
- Liên kết với mỗi loại địa vị, thẩm quyền, khả năng, kiến thức… là một thứ quyền nào đó. Do đó trong mỗi loại nghề nghiệp, luôn có những nguy cơ và cám dỗ lạm dụng quyền hành để bóc lột người khác hầu thủ lợi cho mình. Mỗi thứ nghề nghiệp đều cần một nền luân lý nghề nghiệp riêng. Và mỗi người phải hành động với tinh thần trách nhiệm trong vị trí của mình và trong chính nghề của mình, phục vụ người khác bằng chính “quyền bính” của mình, chứ không lạm dụng mà làm thiệt hại đến người khác.
- Nếu Đấng Mêsia đến đưa ơn cứu độ cho thế giới, các núi đồi (những ai có quá nhiều) phải lấp đầy các thung lũng (những người có quá ít). Nơi nào còn có bất bình đẳng, sự giàu có bất công bên cạnh cảnh sống cùng quẫn, người Kitô hữu phải san bằng các núi đồi và thung lũng. Nếu chúng ta có một thứ mà người khác rất cần, phải chăng chúng ta bán với giá thật cao để trục lợi? Có khi nào chúng ta lạm dụng địa vị, nghề nghiệp để khống chế kẻ khác? Có khi nào chúng ta lạm dụng quyền bính để bắt người khác chờ hàng giờ để được một điều chúng ta có thể làm dễ dàng tức khắc cho họ?
- Xin ghi lại một suy tư của thánh Âutinh (354-430):
“Gioan cao trọng đến nỗi người ta đã có thể coi ông là Đức Kitô. Chẳng cần ông phải nói ra; người ta đã nghĩ như thế rồi… Nhưng người bạn khiêm tốn ấy của chàng rể, nhiệt thành phục vụ danh dự của chàng rể, không muốn chiếm lấy chỗ của chàng rể, như một chuyện ngoại tình. Ông làm chứng cho bạn mình, ông đưa chàng rể đích thực đến với cô dâu, ông kinh tởm chuyện mình được yêu thương thay thế Người bởi vì ông chỉ muốn được yêu thương trong Người mà thôi…
Người môn đệ nghe tiếng thầy; người ấy đứng bởi vì đang lắng nghe thầy, bởi vì nếu người ấy từ chối nghe thầy, chắc chắn người ấy sẽ té ngã. Điều làm nổi bật sự cao trọng của Gioan trước mắt chúng ta, đó là ông đã có thể được coi là Đấng Kitô, tuy thế, ông đã chọn làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, công bố sự cao cả của Người và hạ mình xuống, chứ không coi mình là Đấng Mêsia và tự lừa dối mình khi lừa dối kẻ khác. Do đó, Đức Giêsu có lý khi nói về ông rằng ông còn hơn là một ngôn sứ … Gioan đã tự hạ trước sự cao cả của Chúa, để sự khiêm nhường của ông đáng được sự cao cả ấy nâng lên” (Bài Giảng thứ hai lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, số 288, 2; PL 38-39, 1302-1304).
75. Chú giải của Noel Quesson.
Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”
Gioan Tẩy giả “Rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Chúng ta đã đọc như thế trong Chúa nhật trước. Đám đông người Palestine thời Đức Giêsu gồm có những nông dân, đơn giản và thực tế; họ muốn sống phù hợp với phép rửa của họ. “Chúng tôi phải thay đổi những gì trong cuộc sống? Chúng tôi phải làm gì?”.
Chúng ta đã nhận phép rửa để tha tội trong tình trạng vô ý thức của thời thơ trẻ. Nhưng suốt cuộc đời ý thức trưởng thành, chúng ta phải sống lại “dấu chỉ” này, bí tích hoán cải này. Và chúng ta biết rằng, bí tích rửa tội đúng ra không thể tái diễn được nữa, chúng ta có thể sử dụng điều mà thần học truyền thống gọi là “phép rửa thứ hai”; đó là “bí tích sám hối” mà chúng ta chuẩn bị nhận lãnh để chúng ta cũng đón tiếp Đấng sẽ đến.
Cũng như đám đông Palestine, chúng ta không thể thỏa mãn với những lời nói suông với những nghi lễ. Chúng ta cần phải nhiệt tình đặt câu hỏi với Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì để trở thành Kitô hữu?”.
Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”
Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự “hoán cải” qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “métadola” cần được thực hiện.
Để xét xem những cách tuyên xưng đức tin của bạn có đúng hay không, bạn không nên kiểm tra tính xác thực có vẻ lý thuyết của chúng trong sách vở… nhưng tốt hơn hãy nhìn vô tủ áo, tủ chứa đồ ăn, những ngăn kéo và trương mục ngân hàng của bạn. Hãy chia sẻ – Hãy cho một nửa đi- Lạy Chúa, Chúa yêu cầu con những gì?
Chúng con nhận thấy rõ Luca người loan báo Tin Mừng của Chúa sẽ nêu gương cho chúng con qua cử chỉ điên rồ của tên vô lại Da-kêu trưởng ban thu thuế thành Giêrikhô: “Tôi cho người nghèo phân nửa tài sản của tôi” (Lc 19,9). Luca còn kể lại rằng, chính Đức Giêsu đã bảo những người giàu có đương thời sống, chia sẻ, thay vì quá lo lắng đến sự “trong sạch” của họ (Lc 11,41). Luca cũng cống hiến cho chúng ta gương mẫu của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu: “Họ để mọi sự làm của chung” (Cv 2,44 – 4,32-35). Còn chúng ta thì sao?
Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”
Từ những đám đông này, Luca rút ra được hai loại người: thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.
Ở đây chúng ta cũng nhận ra rằng Tin Mừng theo Thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu “dùng bữa nơi nhà những người tội lỗi” (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình Đức Giêsu, “ngụ tại nhà người tội lỗi” (Cl 19,7) làm cho những “người đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Người đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).
Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (Lc 3,6) cả những người thu thuế và những binh lính, cả những người tội lỗi, và cả tôi nữa. Lạy Chúa, Tạ ơn Chúa về lòng từ bi của Chúa.
Đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới, tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời bấy giờ thường hay vấp phạm: làm giàu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình, lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ.
Còn tôi thì sao? Tôi thường phạm những tội nào do nghề nghiệp, địa vị của tôi?
Tội của linh mục? Của giáo sư? Của nhân viên văn phòng? Của cô y tá? Của y sĩ? Của công chức? Của chủ xí nghiệp? Của người thợ ăn lương? Của người buôn bán? Của con cái? Của cha mẹ? Của nữ tu sĩ? Xã hội đã đổi mới biết bao, nếu tất cả những người được rửa tội đều cử hành một “phụng vụ sám hối” đích thực.
Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Trình thuật của Luca có thể dừng ở đó. Nhu cầu “hoán cải” có thể dừng lại ở phương diện nhân bản, xã hội và luân lý. Thế nhưng, đám đông lại chờ đợi một cái gì khác.
Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!
Ở đây Luca đổi từ ngữ những “đám đông” (tiếng Hy Lạp là ochloi) bây giờ trở thành một “dân tộc” (tiếng Hy Lạp là laos). Khối dân chúng nặc danh đạt được một phẩm giá mới, nhờ tự đặt ra cho mình một câu hỏi: họ không chỉ đợi một cái gì đó nữa, mà là một Đấng nào đó… Khát vọng căn bản của họ, là một ước muốn thầm kín, nằm sâu trong lòng họ, mà họ không biết diễn tả hay không dám diễn tả. Biết bao người ngày nay cũng như thời bấy giờ không biết “gọi tên Đấng – mà họ mong đợi trong lòng”. Có một Đấng Cứu chuộc hay không? Chúng ta có thể trông cậy ở một Đấng Mêsia, một Đấng Thiên Chúa sai đến để giải thoát tận căn những khổ đau của chúng ta không?
Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Bề ngoài, người ta không nghe thấy họ đặt câu hỏi cách rõ ràng, nhưng Gioan Tẩy giả, do một thứ ân sủng ngôn sứ, đã đọc thấy trong lòng họ. Tôi có biết lắng nghe những gì thầm kín trong lòng các bạn đồng nghiệp, người lân cận và bạn bè của tôi không? Từ những vấn đề thuộc nhân quyền, tôi có đi đến chỗ nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người đã mời họ mở tủ áo, mở tủ đồ ăn của họ. Bây giờ Người mời họ mở lòng họ ra để tiếp gặp một Đấng đang tiến đến phía họ. Hãy lắng nghe! Lắng nghe. Những bước chân của Chúa đang đến với bạn đó.
Đối với Gioan, không chỉ có những diễn viên hiện diện trên sân khấu: đám đông, người thu thuế, binh lính, v.v… Nhưng có một diễn viên chính còn đang ẩn nấp. Còn đối với tôi thì sao?
Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.
Đây chính là trung tâm của trình thuật Tin Mừng: Sự can thiệp cần thiết của Thiên Chúa. Hoán cải có thể là một hành vi không thường dễ dàng. Gioan Tẩy giả chỉ đòi hỏi những việc tầm thường. Các bạn hãy thử đi? Những điều Thiên Chúa đòi hỏi, dù có nhiều dạng thức nhưng đều là những gì khó có thể thực hiện: “Hoán cải”, “trở lại”, đổi đời đều khó thực hiện, nếu con người chỉ dùng sức riêng của mình. Cần phải có một hành vi của Thiên Chúa: Mỗi bí tích là một hành vi của Thiên Chúa, bằng và hơn một hành vi của con người.
Để mô tả tác động của Thiên Chúa, Gioan Tẩy giả dùng ba hình ảnh: Sự dìm xuống nước, gió và lửa. Trong tiếng Aramên cũng như trong tiếng Do Thái, cùng một từ là “ruah” có nghĩa vừa là “gió” vừa là “tinh thần”. Lối chơi chữ này muốn cho ta hiểu rằng, Thần khí của Thiên Chúa sẽ lay chuyển chúng ta như một cơn gió bão, một cơn bão táp mà ta bị “nhận chìm”, bị “dìm sâu” trong đó. Và Thần Khí của Thiên Chúa cũng như một ngọn lửa sẽ đốt cháy và thiêu hủy những nhơ bẩn của ta. Quả nhiên, khi Luca mô tả phép rửa trong Thánh Thần, Đấng “hoán cải” các tông đồ, thì trong ngày lễ Ngũ Tuần, sự kiện đó sẽ diễn ra qua một “tiếng gió mạnh” và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2,2-3).
Để giúp bạn tưởng tượng ra bí tích sám hối ngày Giáng sinh (phép rửa thứ hai), bạn hãy thử coi bạn như đang ở trong sức thiêu đốt của một cơn bão lửa… sẽ đổi mới bạn. Ôi, sự thiêu đốt đầy hạnh phúc của Thần Khí Thiên Chúa! Chúng ta có khuynh hướng biến những “chất nổ” Tin Mừng thành những thứ “kẹo bánh” dịu ngọt, tuy nhiên, đâu có hoàn toàn giống như thế!
Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”
Ở đây đúng là đang nói về Đức Giêsu: Người đến, tay cầm “nia” như vị thẩm phán ngày cánh chung để thu dọn và quét sạch một lần cuối cùng. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một người rê thóc trên sân phơi của anh ta chưa? Vào một ngày có gió lớn, anh ta đứng thẳng, tay cầm chiếc nia lớn chứa thóc lẫn lộn với trấu và bụi bặm… rồi anh ta đổ xuống. Lúc đó, gió sẽ tách rời hạt nặng hơn khiến chúng rơi thẳng xuống, còn rơm trấu thì gió thổi đi xa. Người ta đem lúa vào vựa người ta đốt rơm trong lửa.
Chúng ta chớ lừa gạt chính mình. Chúng ta cũng không thể lừa gạt được Thiên Chúa. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy những gì có giá trị, có trọng lượng trong cuộc sống của mình, và những gì không có giá trị trong lòng dạ con người: Có bao nhiêu thóc? hay chỉ là rơm rác?
Mong sao cho “gió và lửa” của Thần Khí ngay từ bây giờ hãy làm ra sự thật. Nhờ “phép rửa thứ hai” tôi lãnh nhận, nhờ “hành động của Thiên Chúa”, tôi sẽ cố gắng làm nên sự thật, để chọn lựa trong cuộc sống của tôi, giữa ích kỷ và tình thương, giữa đàn áp và công lý, giữa tính ích kỷ làm nhơ bẩn tình yêu của tôi và tình yêu trong sự trong sạch của nó, giữa thái độ thực sự ngóng đợi Thiên Chúa và thái độ lãnh đạm buồn thảm đầy duy vật.
Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
Sự phán xét này không phải là những điều khủng khiếp đáng sợ, mà là một “Tin Mừng”. Chúa phán: “Không đâu, sự ác sẽ không tồn tại luôn mãi. Ta đã cầm nia rồi đấy”. Tạ ơn Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam