Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1377451

Ý NGHĨA CỦA MỘT LẦN TRỪ QUỶ

Ý NGHĨA CỦA MỘT LẦN TRỪ QUỶ- Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM

Ngữ cảnh

Tìm xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật đời sống công khai của Đức Giêsu, là việc quan trọng. Mt bắt đầu với bài diễn từ thứ nhất và dài nhất trong năm bài diễn từ, đó là Bài Giảng trên núi (Mt 5,1–7,2). Mối quan tâm chính của tác giả TM I là diễn tả giáo huấn của Đức Giêsu. Lc thì nói tới việc Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường Nadarét (Lc 4,16-30); tại đó, liên kết bản thân với Cựu Ước (Is 61,1t), Đức Giêsu trình bày uy quyền và mục tiêu của sứ mạng của Người như nằm trong một chương trình đã được thiết lập. Trong Mc, điều đầu tiên chúng ta thấy là sự xuất hiện của Đức Giêsu tại hội đường Caphácnaum.

Caphácnaum ở trên bờ phía tây bắc hồ Ghennêxarét, cách cửa sông Giođan vài cây số. Kết quả các cuộc khai quật khảo cổ cho ta gặp lại những di tích của thế kỷ IV kỷ nguyên chúng ta, nhưng vẫn ở ngay tại nơi có hội đường vào thời Đức Giêsu. Điều lạ lùng là Mc không kể gì về giáo huấn của Đức Giêsu, mà chỉ nêu sự kiện là Người đã giảng dạy và ấn tượng mà các lời Người nói gây nên nơi dân chúng. Quả vậy, tác giả đặt ở hàng đầu không phải là giáo lý của Đức Giêsu, mà là con người của vị Tôn sư.    

Mc đã đặt câu truyện này ngay sau khi Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ, mà coi như là hoạt động công khai đầu tiên Đức Giêsu hoàn tất với sự hiện diện của các môn đệ kể từ nay sẽ “ở với Người” (3,14). Thế mà Đức Giêsu đến để loan báo Tin Mừng, loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã có đó, quyền năng cứu độ đã đi vào hoạt động, một thế giới mới đã được mạc khải. Trong Lời mang sức giải thoát mà Đức Giêsu nói ra, chính Thiên Chúa hành động; Đức Giêsu, vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và việc làm, chính là Tin Mừng đang tiến hành.

Đoạn này thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34). Trong một đơn vị thống nhất về thời gian và không gian như thế (một ngày sa-bát tại Caphácnaum), Mc đã quy tụ nhiều câu truyện: việc giảng dạy, trừ quỷ, chữa mẹ vợ Simôn, rồi, đến chiều, có một bức họa tổng quát. Các truyện này xảy ra tại một hội đường, tại nhà, tại cửa thành. Nhưng chuỗi hoạt động này lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ. Bản văn đang khảo sát là cốt lõi của một chuyển động vừa tập trung vừa lan toả, nên trở thành bản văn tiêu biểu, tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu. Điều được biểu lộ ra (sự giải phóng do Đức Giêsu mang lại) tại địa điểm chính thức của Do Thái giáo, trong nhà Lề Luật, là để được phổ biến trong khắp miền Galilê. Và sau Phục Sinh, miền này sẽ trở thành địa điểm xuất phát của các môn đệ để các ông đi khắp thế giới mà thi hành sứ vụ. Vì thế, có kết luận: “Danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tuy nhiên, không nên quên lệnh cấm nói: danh tiếng này chỉ có được nền tảng đích thực khi cuộc Khổ Nạn đã được hoàn tất.

Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

-Đức Giêsu giảng dạy (1,21-22):

+nơi chốn và thời gian: Caphácnaum; ngày sa-bát,

+dân chúng kinh ngạc về lời giảng và uy quyền;

-Ca người bị quỷ ám (1,23-26):

+phản ứng của quỷ,

+lời nói uy quyền của Đức Giêsu,

-kết quả;

-Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (1,27-28):

+dân chúng kinh ngạc: giáo lý và uy quyền,

+danh tiếng được đồn đi: mọi nơi, khắp vùng lân cận miền Galilê.

Câu truyện trừ quỷ này lại được đóng khung bằng câu nói về “lời giảng dạy có uy quyền”, khiến các nhà chú giải nghĩ đến nhiều đợt làm việc trên câu truyện này.

Vài điểm chú giải

– sửng sốt (22): dịch sát là “bị đánh ngã”, “bị quẳng ra ngoài”. 

– Có một người bị thần ô uế nhập (c.23): Tác giả giới thiệu “ca” bệnh. Nhưng rồi, thay vì nói đến một sáng kiến, một thái độ của người bệnh hoặc của những người có mặt nhằm bày tỏ lòng tin, tác giả cho thấy không có ai can thiệp vào cả, Đức Giêsu cũng không làm gì cả; thế mà đã xảy ra như một cú “bùng nổ”.

– la lên rằng: “… chuyện chúng tôi can gì đến ông…” (23-24): Dường như chỉ nguyên việc đứng trước mặt Đức Giêsu đã khiến ma quỷ phải hét lên (x. một phản ứng tương tự: 9,20). Rõ ràng, khi gặp Người, ma quỷ bị một cú sốc, nó không thể thản nhiên như không được. Nó hét lên: “Giêsu Nadarét, chúng tôi với Ngài nào có việc gì?” (NTT). Trong Cựu Ước, câu nói này nhằm thiết lập một khoảng cách giữa hai người: hoặc một sự bất hoà giữa hai cá nhân trước đây hoà hợp (x. Tl 11,12; 2 Sb 35,21; 2 Sm 16,10; 19,23; 1 V 17,18 với ý nghĩa: “tôi đã làm gì cho bạn, đã xảy ra chuyện gì khiến bạn làm như thế, bạn xử với tôi như thế ?”), hoặc là từ chối mọi quan hệ hoặc mọi thoả hiệp giữa hai bên thù nghịch (x. Gs 22,24; 2 V 3,13; Hs 14,9: “Giữa chúng ta còn có thể quan hệ gì nữa? Ông lo việc của ông đi!”). Bản văn Mc theo nghĩa thứ hai: đây là một lời tuyên chiến, hoặc đúng hơn, một lời tuyên bố tình trạng thù nghịch và một lời từ chối giao đấu vì bên liên hệ quá biết kết quả rồi (x. 5,7).

– Đấng Thánh của Thiên Chúa (x. 5,7 “Con Thiên Chúa Tối Cao”): Cho dù đa số các nhà chú giải coi đây là một danh hiệu của Đấng Mêsia, cha Lagrange lưu ý là trong nền văn chương Do Thái giáo, Đấng Mêsia không được gọi như thế. Hẳn là câu này muốn nói Đức Giêsu là một con người thuộc về thế giới của Thiên Chúa thánh thiện. Người ở trong quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa, và do đó, câu này diễn tả tình trạng không thể hòa hợp giữa Đức Giêsu và tà thần (HL. pneuma akatharton: đối nghịch lại với linh thánh, với Thiên Chúa). Nhưng chắc chắn là trong Mc, công thức này đã có ý nghĩa Kitô giáo, nghĩa là được dành cho Đấng Mêsia.

Ma quỷ cảm nhận sự hiện diện của Đức Giêsu như một sự gây hấn, nên nó đã “bùng nổ”.

– Đức Giêsu quát mắng (quát bảo, NTT) (25): Theo nghĩa chữ, động từ Hy Lạp epetimêsen (x. 3,12; 4,39; 8,30.32.33; 9,25; 10,13-48) này có nghĩa là “đặt một timê (giá cả, giá trị) trên”, và từ nguyên thuỷ, nó có nghĩa tích cực. Trong Mc, động từ này có nghĩa là “nói một cách nghiêm túc, lưu ý nhằm ngăn cản một hành vi hoặc để chấm dứt hành vi nào đó” (Arndt & Gringrich). Đây là một lệnh truyền hơn là một lời la mắng, một lệnh cấm. Đức Giêsu đã truyền hai lệnh “Câm đi” và “Xuất khỏi người này”.

– Câm đi (phimôthêti): Nguyên nghĩa của động từ HL phimoô là “khoá mõm; muzzle”: Ma quỷ bị coi như là một con thú dữ cần phải chế ngự để làm cho nó ra vô hại. Tác giả dùng lại động từ này trong truyện Dẹp yên bão táp (x. 4,39).

– Xuất khỏi: Đứng trước quỷ, Đức Giêsu thường truyền lệnh này (x. 5,8; 9,25), và quỷ vâng theo tức khắc.

– Thần ô uế lay…, thét… (26): Những hiện tượng này cho thấy kết quả đã đạt được (như trong 9,26), nhưng không có giao tranh; như thế là khác với câu truyện Ghêrasa (5,1) và người động kinh (9,14), vì ở chỗ đó dường như Đức Giêsu có gặp một sự kháng cự nào đó. Còn ở đây, chiến thắng đạt được tức khắc. Đó là điều những người chứng kiến thấy là bất thường, và họ thán phục: các thần ô uế tuân theo lời nói của Đức Giêsu ngay. Tiếng hét ở c. 24 và tiếng hét ở c. 26 như tiếng hét của kẻ sắp chết, cho thấy rằng đây không phải là một việc trừ quỷ như dân chúng đã quen nghe biết, vì một quỷ bị đuổi đi hôm nay sẽ có thể trở lại vào một ngày khác. Cuộc trừ quỷ do Đức Giêsu thực hiện là một sự kiện “mới” trong lịch sử cứu độ. Một thời đại mới đã khởi sự, thế giới đã sang tay người chủ khác; quyền lực của tà thần đã chấm dứt: một “cá nhân” quỷ mới, nhưng nhận định cho số phận của “tập thể” quỷ (“chúng tôi”), (x. 5,10). Vậy Đức Giêsu Nadarét không phải là một người trừ quỷ bình thường, nhưng là Sứ giả của Thiên Chúa, Đấng Thánh. Với sự hiện diện và hoạt động của Người, Thiên Chúa thiết lập Triều Đại của Ngài (x. 3,22-30).

– So sánh với 4,37-41: Nếu so sánh đoạn văn này với hai cảnh của ch. 5 và 9 (Ghêrasa và người động kinh), ta thấy hai truyện ấy thật là sống động, còn bản văn 1,23-27 quá đơn giản. Dường như truyện này là một bài mẫu tổng quát. Ta nhận thấy bài này được xây dựng theo cùng một kiểu như bài tường thuật về cơn bão bị dẹp yên (4,37-41), hoặc đúng hơn, “cơn bão bị dẹp yên” được nhìn như một cuộc trừ quỷ:

Trừ quỷ      

Bão yên (4,37-41)

23

Có một người bị thần ô uế nhập la lên rằng

37

Và một trận cuồng phong nổi lên,sóng ập vào thuyền

38

các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:

24

“Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”

(= chúng tôi chết mất)

“Thầy chẳng lo gì sao chúng ta chết đến nơi rồi”

(= chúng ta/tôi chết mất)

25

Đức Giêsu quát mắng nó (đe doạ) nó:

39

Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển

“Câm đi và xuất khỏi người này!”     

“Im đi! Câm đi!”

26

Thần ô uế hét lên một tiếng và xuất

Gió liền tắt và biển lặng như tờ

40

Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

27

Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau:

41

Các ông hoảng sợ (kinh ngạc) và nói với nhau:

“Thế nghĩa là gì?

“Vậy người này là ai?

Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền

Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!

mà cả đến gió và biển

cũng phải tuân lệnh?

Bảng đối chiếu này cho thấy hai bài có một lược đồ chung:

-Sự hiện diện của Đức Giêsu gây ra một cuộc bùng nổ các sức mạnh tà thần (quỷ hoặc biển); thế trận.

-Đức Giêsu như bị khiêu khích, hoặc bởi ma quỷ là hãy rút lui đi, hoặc bởi các môn đệ là hãy hành động đi, cả hai bên đều dùng động từ “chết” (apollymi).

-Chiến thắng toàn diện của Đức Giêsu được diễn tả bằng hai động từ “đe doạ” và “khoá mõm”,  “câm”.

-Cuối cùng là sự kinh ngạc và câu hỏi về Đức Giêsu, Đấng đã buộc được tà thần phải tuân lệnh.

Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu giảng dạy (21-22)

Tác giả ghi nhận ấn tượng Đức Giêsu tạo ra nơi dân chúng: họ bị đánh động sâu xa, họ bị rúng động, họ hết sức kinh ngạc. Đức Giêsu không trình bày các ý kiến cũng không cống hiến những đóng góp vào cuộc tranh luận, nhưng giảng dạy với uy quyền, với lời nói có sức mạnh, có hiệu lực tuyệt đối; đàng sau những điều này, Người nói rằng Người có Thiên Chúa với uy quyền của Ngài. Dân chúng ghi nhận điều này và biết mình bị thách thức bởi giáo huấn của Người. Uy quyền của giáo huấn này được phản ánh, như trong một tấm gương, nơi hiệu quả gây ra trên dân chúng. Giáo huấn này không nhắm mở đường cho các cuộc tranh luận, nhưng muốn nắm lấy, lay chuyển, đưa đến một định hướng đời sống cụ thể mới mẻ (= hoán cải).  

Đức Giêsu đến để loan báo Thiên Chúa như là vị Chúa tể đích thực và về sự hiện diện chan hòa ân huệ của Ngài. Chính là với sứ điệp này mà Người đến hội đường Caphácnaum. Đây là nơi dân chúng một làng tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu không đến làm việc trong hoang địa như Gioan Tẩy Giả, nhưng đến hội đường. Người tháp hoạt động của Người vào trong nền phụng tự của Israel, như sứ giả của vị Thiên Chúa mà dân Israel thưa gửi với trong hội đường.

* Ca người bị quỷ ám (23-26)

Các cuộc trừ quỷ, và nói tổng quát, cuộc chiến đấu chống Satan, chiếm một vị trí quan trọng trong tác phẩm Mc, vừa về lượng vừa về phẩm: trong bốn bài tường thuật trong đó có hai bài với nhiều chi tiết của riêng Mc (1,21-28; 5,1-20; 8,4-30; 9,14-29), trong nhiều bản tóm tắt của riêng Mc về hoạt động của Đức Giêsu (1,34-39; 3,11-12) và cả trong đối tượng thuộc hoạt động truyền giáo của các môn đệ (3,15; 6,7.13).

So với Mc, Mt và Lc có những khác biệt đáng kể: Lc có giữ lại bài tường thuật ta đang khảo sát (Lc 4,31-37), và có một bản tóm tắt gần giống Mc (Lc 4,41 // Mc 1,39); Mt không có câu chuyện trừ quỷ tại Caphácnaum. Nhưng cả hai vị, đặc biệt Mt, có khuynh hướng giảm thiểu hay loại bỏ “phương diện ma quỷ” của nhiều bài tường thuật (x. truyện Bà Canaan, Sứ mạng của Nhóm Mười Hai và nhất là truyện Chữa người động kinh). Thường truyện được chuyển từ tình trạng quỷ ám sang tình trạng đau ốm, từ việc trừ quỷ sang việc chữa bệnh. Dù sao, những con người bị hành hạ như thế vẫn liên tục xuất hiện trong phạm vi hoạt động của Đức Giêsu. Chúng ta thật khó mà hiểu được những sức mạnh khống chế con người và biến họ thành nô lệ. Các sức mạnh này được giới thiệu như là siêu nhân, phản ứng như thể chúng là con người, có một sự hiểu biết đặc biệt, ở thế đối lập với Thiên Chúa, thống trị và làm hại con người. Có những người nói rằng chúng ở trong biển; có những khác lại cho rằng chúng ở trên không trung, nhưng chẳng ai biết rõ chúng. Điều duy nhất chắc chắn, đó là người ta hoàn toàn bất lực khi đứng trước chúng.

Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó; và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới phải hét lên và đi ra. Nó ở đấy và dường như không gây vấn đề gì. Cũng không có ai gây phiền hà gì cho nó. Nhưng Đức Giêsu thấy người ấy đang ở trong quyền lực của tà thần. Đức Giêsu và tà thần giống như hai kẻ thù gặp nhau: hai bên rất ghét nhau, tìm cách lờ nhau đi, nhưng rồi lại không thể nào tránh khỏi gặp nhau.

Quỷ tỏ thái độ thù nghịch trước, vì nó cảm thấy nó yếu hơn. Nó thấy rằng “Đấng Thánh” (“Đấng mạnh / quyền thế hơn”: Mc 1,7; “người mạnh”: Mt 12,29) có khả năng tiêu diệt nó và vương quốc của nó: “Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24). Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (c. 25). Thần ô uế vâng lời. Với lời nói hữu hiệu của Người, Người chứng tỏ quyền lực đích thực của Triều Đại Thiên Chúa mà Người loan báo; Người cho thấy rằng Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng và Thiên Chúa đang dùng quyền lực của Người để giải thoát loài người và trả lại cho họ khả năng xác định mình như là những con người tự do. Đức Giêsu đưa tự do và bình an đến không phải nhờ một thỏa hiệp với sự dữ, nhưng chỉ nhờ cách thắng vượt sự dữ. Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng này, ta cũng thoáng thấy Đức Giêsu là ai.

* Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (27-28)

Dân chúng sững sờ kinh ngạc. Họ nhận ra rằng có một vị ngôn sứ đang ở giữa họ với “giáo huấn mới, một cách có uy quyền” (c. 27 – NTT). Đó là vì lời nói của Đức Giêsu thực hiện được điều Người diễn tả. Tác giả nhắc lại “lời giảng dạy – uy quyền” (c. 22 // c. 27) để “đóng khung” truyện trừ quỷ. Bằng cách đó, ngài vừa nói lên được hai nét chính trong sứ vụ của Đức Giêsu (giảng dạy – trừ quỷ) vừa minh họa được quyền lực giải phóng của lời Người nói. Ngoài ra, ngài cũng chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu bằng cách ghi nhận rằng sự cố xảy ra tại Caphácnaum đã được đồn ra “khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.

+ Kết luận

Vậy ít ra, đến đây, chúng ta phải nhìn nhận sử tính của những bài tường thuật về trừ quỷ: chắc chắn Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ. Những người đương thời đã coi Người là một vị Thầy chữa bệnh và trừ quỷ. Các câu truyện Ghêrasa và người động kinh cho thấy ấn tượng này rõ hơn. Và nhất là chính những luật sĩ đã kết án Đức Giêsu là “bắt tay” với quỷ vương… Nhưng, dường như Mc có một ý hướng sâu hơn khi trình câu truyện trừ quỷ ở đây.

Gợi ý suy niệm

-Trong “một ngày ở Caphácnaum” được coi như một ngày “mẫu”, Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ: Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng để giải phóng con người. Các tông đồ cũng có mặt: những môn đệ tương lai sẽ nối tiếp Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ.

-Phong thái và các hành vi của chúng ta có cho thấy rằng chúng ta đang được hướng dẫn bên trong bởi uy quyền của Đức Giêsu chăng? Phải chăng chúng ta chỉ rút từ giáo huấn của Người ra những gì chúng ta thích, hay là quả thạt, chúng ta đang liên kết với Người bằng cách trung thành bước theo Người?

-Chúng ta biết là có ma quỷ. Tuy nhiên, không nên nghĩ nó giống như một con quái vật. Đúng hơn nó là sức mạnh làm cho con người chúng ta hành động không đúng với nhân tính chúng ta nữa. Ta chỉ thắng được tà thần không phải bằng một thỏa hiệp và nhượng bộ, nhưng nhờ thẳng thắn chiến đấu chống lại nó nhân danh Triều Đại Thiên Chúa: nó đã và sẽ phản ứng thô bạo, nó kháng cự, la hét. Chúng ta có tin tưởng mạnh mẽ và sống động vào Đức Giêsu chăng? Chúng ta có xác tín rằng Người vượt lên trên tất cả các sức mạnh đối kháng, và nếu kết hợp với Người, chúng ta có thể đánh bại sự dữ và các sức mạnh thù nghịch?

-Cuộc chiến đấu được kể lại đây tượng trưng cho cuộc nổi loạn của các sức mạnh xấu xa trong chúng ta, vì chúng không muốn bị trục xuất; đây là biểu tượng của các khó khăn chúng ta gặp khi chúng ta muốn gỡ mình khỏi các tật xấu. Chúng không muốn bỏ đi. Chúng ta chịu thua hay là chúng ta biết tin tưởng vào lời của Đức Giêsu, lời vẫn vang lên mỗi ngày trong lòng các cộng đoàn của chúng ta?

 

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- Năm B

HÃY TIN THEO ĐÚC GIÊSU- Lm Giuse Đinh lập Liễm

DẪN NHẬP.

Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để tuyên sấm lời Chúa, nhắc nhở cho dân Do thái biết thi hành những nhiệm vụ của họ. Nhưng thời sau cùng, Thiên Chúa không dùng các ngài nữa  mà dùng chính Con của Ngài mà dạy dỗ. Đó là Đức Giêsu Kitô. Ngài là một Ngôn sứ tuyệt hảo của Thiên Chúa mà Maisen đã loan báo như trong bài đọc 1 hôm nay.

Ngài trực tiếp đến dạy dỗ loài người như một Đấng uy quyền chứ không như các luật sĩ chỉ nhắc lại những lời dạy của người xưa, không thêm không bớt một chữ.  Đức Giêsu đến dạy một giáo lý mới mẻ cùng với phép lạ như trừ qủi, làm cho dân chúng hết sức kinh ngạc. Ngài dạy giáo lý riêng của Ngài, có khi loại bỏ, có khi sửa chữa, có khi hoàn chỉnh những lời dạy của người xưa, khi Ngài nói :”Còn Ta, Ta dạy rằng…”.

Chúng ta đã được biết Ngài qua đức tin, đã được học biết giáo lý của Ngài nên chúng ta phải quyết tâm theo Ngài vì chỉ mới Ngài mới có lời ban sự sống đời đời. Chính Ngài là thủ lãnh của đời ta, là thần tượng của sự chọn lựa của chúng ta, nên chúng ta phải quyết tâm tin theo Ngài và phụng sự Ngài cách triệt để trong mỗi hoàn cảnh sống của mỗi người.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : Đnl 18,15-20.

Để đi về đất hứa, dân Do thái đã phải trải qua một thời gian dài 40 năm trong sa mạc. Trước khi vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa mà Chúa đã hứa với cha ông họ, ông Maisen thấy mình không được vào đất hứa và thấy mình đã gần đất xa trời, ông yên ủi dân chúng, khuyên họ đừng buồn tiếc về việc ông ra đi. Đàng khác, ông nói tiên tri cho họ rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Tiên tri tài danh nhất trong lịch sử, không những không kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đấng Tiên tri tuyệt hảo đó sẽ là Đấng Kitô, Đấng Trung gian toàn hảo  vì  Người vừa là Con Thiên Chúa và vừa là con loài người.

+ Bài đọc 2 : 1Cr 7,32-35.

Thánh Phaolô bày tỏ quan niệm riêng của Ngài về vấn đềà hôn nhân và độc thân. Ngài giải thích lý do tại sao ngài thích bậc độc thân hơn vì nó cho phép người ta chuyên lo “việc Chúa” trong lúc ngày tận thế đã gần kề và nhân loại không cần sinh sôi nữa. Trong hoàn cảnh như thế, tốt hơn hết là gắn bó “trọn vẹn” với Chúa.

Một lần nữa, chúng ta thấy vị Tông đồ phán đoán mọi sự vào một sự tuyệt đối duy nhất. Và ngài cũng không hề hạ giá hôn nhân : khi nói đến hôn nhân, ngài cũng sẽ qui chiếu nó về  tình yêu của Chúa (x. Ep 5,21-33).

+ Bài Tin mừng : Mc 1,21-28.

Trong đoạn này, thánh Marcô cho thấy Đức Giêsu Kitô là một Tiên tri ngoại hạng mà Maisen đã tiên báo. Ngài là một Tiên tri có uy quyền trong lời nói và hành động.

* Uy quyền trong lời nói : Trong khi những luật sĩ kèn cựa bàn cãi không dứt về những đoạn văn của Kinh thánh, thì Đức Giêsu khẳng định : Ngài không lặp lại học thuyết của người khác, mà trình bầy học thuyết của Ngài, ví dụ Ngài nói :”Còn Ta, Ta dạy rằng…”.

* Uy quyền trong hành động : Ngài chỉ cần nói một lời thì qủi ô uế  phải xuất khỏi người bị nó nhập, đến nỗi khán thính giả phải thốt lên :”Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Tin theo Đấng có uy quyền.

ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG RẤT UY QUYỀN.

Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt động liền. Hồi bấy giờ xứ Palestine có nhiều hội đường. Những thành phố nhỏ cũng có.

Cách tổ chức hội đường.

Hội đường khác với đền thờ. Hội đường thì có nhiều, còn đền thờ thì chỉ có một ở Giêrusalem. Một buổi họp lại ở hội đường chỉ gồm 3 việc : cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải lời ấy. Không có cử nhạc, hát xướng, cũng không có dâng của lễ.  Có thể nói : đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ chỉ bảo.

Luật pháp qui định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do thái, thì phải có một hội đường. Do đó, bất kỳ nơi nào một nhóm người Do thái định cư thì có một hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp  mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi thuận tiện cho người ấy trình bầy. Đức Giêsu cũng biết lợi dụng tập tục này để giới thiệu giáo thuyết của mình.

Sinh hoạt trong hội đường.

Việc phụng vụ trong hội đường chia làm hai phần : phần đầu là phần phụng vụ thực sự. Trong phần này, người ta hát các bài chúc tụng Chúa. Phần thứ hai là phần giáo huấn, người ta đọc sách Luật hoặc các tiên tri. Đọc rồi, ông hội trưởng hoặc chính ông mời vị nào có tiếng, cắt nghĩa đoạn văn đó.

Khi mọi người họp lại trong hội đường và buổi họp bắt đầu thì ông trưởng hội đường có nhiệm vụ chỉ định người có trách nhiệm giảng giải, trình bầy kinh điển hay một thông điệp mới. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Đức Giêsu có thể lợi dụng dịp thuận tiện này để trình bầy thông điệp mới mẻ của mình.

Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các luật sĩ là các chuyên viên về luật pháp. Các luật sĩ này là ai ? Theo người Do thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật pháp và kinh Torak. Trái tim của luật pháp là Mười điều răn, nhưng người Do thái hiểu luật pháp  là 5 quyển đầu của Cựu ước mà ta gọi là Ngũ kinh (Pantateuch). Theo người Do thái, luật pháp ấy đến hoàn toàn từ Thiên Chúa. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Maisen, nó hoàn toàn thánh khiết và có tính cách ràng buộc tuyệt đối.

Đức Giêsu giảng dạy tại hội đường.

Ngày hưu lễ hôm đó, Đức Giêsu được mời chú giải đoạn văn vừa đọc, có lẽ cũng là đoạn văn Ngài đã chú giải ở Nazareth, thánh Luca kể lại (Lc 4,16-22). Ngài đã làm kinh ngạc mọi thính giả.

Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Thính giả mỗi ngày một đông, gồm đủ thành phần. Nhưng ai nấy đều nhận định rằng : Ngài không dạy như các luật sĩ. Các ông này thường nại đến thế giá những người xưa. Lý tưởng các ông là trao lại nguyên vẹn giáo lý họ đã lãnh nhận, không thêm mà cũng không bớt. Trái lại, về mọi vấn đề, Đức Giêsu cóù sẵn mọi cái để giải quyết. Ngài cũng chẳng ngần ngại  dạy những điều đi ngược với người xưa, hoặc sửa lại cho hoàn hảo. “Đã nói cho người xưa rằng…Phần Ta, Ta bảo các ngươi”(Mt 5,21t).

Nói tóm lại, các luật sĩ là tiếng nói của tập truyền, còn Đức Giêsu là tiếng nói riêng của Ngài. Ngài có cả quyền chuẩn y  hoặc khước từ hoặc sửa sai tập truyền nữa. Lẽ dĩ nhiên kẻ cho mình cái quyền này, trong thời gian mà các luật sĩ và biệt phái dành cho mình độc quyền thiêng liêng, thì tất nhiên là con người hành động “như có uy quyền”.

Đức Giêsu chữa người bị qủi nhập.

Đức Giêsu tỏ ra có uy quyền  trong lãnh vực giáo thuyết, Ngài còn tỏ ra có uy quyền trên lãnh vực hành động và biểu lộ quyền năng ấy bằng phép lạ chữa khỏi người bị thần ô uế ám để chứng minh giáo lý Ngài dạy.

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại :”Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng : Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi” ?  Thần ô uế đây là ma qủi : chữ “ô uế” trong Tân ước gắn liền với chữ “qủi” tới 23 lần.  Ma qủi tỏ ra khổ cực và khiếp đảm khi gặp Đức Giêsu và Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủi, giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ấy. Chính vì vậy, mà ma qủi kêu lên  như thầm xin với Ngài để mặc chúng. Qủi đang tuyên xưng danh Ngài thì Ngài quát mắng nó :”Câm đi, và ra khỏi người này”. Nó liền vật ngã người đó xuống, thét lên một tiếng rồi xuất ra.

Những khán thính giả đã được nghe và chứng kiến về giáo lý và việc trừ qủi của Đức Giêsu đều kinh ngạc vì họ nhận ra một cái gì mới mẻ nơi Đức Giêsu. Cái mới mẻ đó dẫn được họ tin nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Chính vì cái mới mẻ đó mà danh tiếng của Đức Giêsu được lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.

Đức Giêsu đã thực sự trừ qủi trước mặt mọi khán thính giả. Thiết tưởng cũng cần phải phân biệt ma và qủi. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một  mà người Việt nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma qủi. Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe doạ hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn qủi là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đầy xuống hoả ngục. Như vậy, ma có không ? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xẩy ra trong một số trường hợp rất hoạ hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, để đương sự nhắn nhủ một điều gì đó với người sống, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện.  Còn qủi thì sao ? Phải công nhận là có, vì Kinh thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Đức Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật B, tr 52).

THEO ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CÓ UY QUYỀN.

Hai vương quốc, hai thủ lãnh.

Trong hội đường hôm nay, khi trông thấy Đức Giêsu đầy uy quyền , ma qủi đã phải thốt lên:”Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi : ông là Đấng thánh của Thiên Chúa” ! Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó:”Câm đi, hãy xuất khỏi người này”. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu có quyền trên ma qủi, và vương quốc Đức Giêsu  thiết lập trên trần gian này cũng trổi vượt trên vương quốc của ma qủi.

Trong cuốn “Linh thao” của thánh Ignace de Loyola, thánh nhân có hướng dẫn suy niệm về hai cờ hiệu (étandard) : cờ hiệu của Đức Kitô, vị chỉ huy tối cao và Chúa chúng ta ; cờ hiệu của Lucifer kẻ tử thù của bản tính loài người chúng ta.  Đức Kitô kêu gọi và muốn cho mọi người ở dưới bóng cờ Ngài ; và ngược lại, Lucifer (cũng gọi và muốn cho mọi người) ở dưới cờ của nó.  Như vậy là có cuộc chiến khốc liệt giữa vương quốc của Đức Kitô và của ma qủi.

Việc Đức Giêsu trừ qủi nói lên rằng vương quốc của Satan từng kìm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ từ khi Adong phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho vương quốc của Thiên Chúa.

Điều này gợi lên cho chúng ta một vấn nạn : Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm trước, thế thì tại sao đến ngày hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng ? Hoặc nói cách khác : Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao vương quốc Satan vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay ?  Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau : Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xẩy đến chỉ trong một lúc, mà là một chuyển động liên tục suốt dòng lịch sử.  Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất : Đó là lý do tại sao trong lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu khẩn :”Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Đức Giêsu trồng cây ấy, tức vương quốc, vào trong đất, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ chúng ta là chăm sóc làm sao cho vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo ý định Thiên Chúa.

(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 191)

Theo Đức Giêsu là thủ lãnh.

Giới trẻ ngày nay thích tìm những thần tượng để suy tôn, để bắt chước. Thần tượng của họ chỉ là những diễn viên, minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, ca sĩ nhạc trẻ hoặc một nhà chính trị lừng danh.  Nhưng những thần tượng đó chỉ nhất thời và cũng không đủ tiêu chuẩn để hướng dẫn đời họ, chỉ có một thần tượng tuyệt hảo là Đức Giêsu, có đủ mọi tiêu chuẩn để hướng dẫn cuộc sống của chúng ta một cách bảo đảm.

– Đức Giêsu là thủ lãnh trên đường đời của ta. Một thủ lãnh lôi cuốn bằng đời sống gương mẫu. Tin mừng hôm nay kể ma qủi khen Đức Giêsu qua miệng của đứa nó ám vào : Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa. Khen là Đấng thánh của Thiên Chúa thì chẳng còn  cách nói nào khác hơn  để ca tụng. Đời sống Chúa còn hoàn toàn hơn lời Ngài dạy. Thánh kinh nói :”Chúa bắt đầu làm rồi mới dạy”(Tđcv 1,1).

– Một thủ lãnh dạy một chủ thuyết đưa tới đời sống ấy. Tin Mừng hôm nay nói :”Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như luật sĩ”(Mc 1,22).

– Một thủ lãnh cho sức mạnh để thực hiện đầy đủ đời sống ấy. Tin  Mừng kể Chúa làm phép đuổi qủi. Việc ấy chứng tỏ Ngài có quyền năng của Thiên Chúa.

Truyện : Theo anh là thủ lãnh.

Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.

Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói :

– Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go : Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ… Em ở lại hay theo anh ? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.

Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói :

– Theo anh là thủ lãnh của em.

Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé :

– Em có bỏ không ?

Lời thưa đầy hăng hái rằng :

– Em đã chẳng hứa với anh sao ?

Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.

Phục vụ cho thủ lãnh của mình

Sau khi đã tìm ra Đức Giêsu là thủ lãnh của đời ta, chắc chắn chúng ta phải tin theo Ngài, làm môn đệ của Ngài cũng như giới thiệu Ngài cho những người khác. Chúng ta theo gương các tông đồ mà phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ cho Nước Ngài lan rộng khắp nơi. Thánh Ignace đã dạy chúng ta cầu nguyện để có tinh thần đó :

“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết là con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen.

Thánh nữ Têrêsa Hài đồng yêu Chúa rất nồng nàn, thánh nữ chỉ biết yêu trong việc phụng sự Chúa. Không gì làm cho thánh nữ buồn sầu, tất cả những gian lao thử thách chỉ làm cho ngài thêm yêu Chúa. Những ý tưởng ấy được thánh nữ gói ghém trong câu thơ sau đây :

Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi,

Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.

Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong

Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.

Truyện : Phụng sự cho ai ?

Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, ta thấy cũng có một câu truyện dụ ngôn về một chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.

Truyện kể rằng : Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được  một người nào mạnh nhất để phục vụ.

Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.

Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá. Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cẫu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:

– Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.

Cậu bé mỉm cười đáp:

– Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất.

Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.

Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng : muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.

Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.

Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.

home Mục lục Lưu trữ