Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 36

Tổng truy cập: 1378369

Yêu thương là cho đi

Yêu thương là cho đi

Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có những hy sinh gian khổ của nó.

Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng: Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết. Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại. Mẹ thấy vậy bèn ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai? Không chút do dự người đàn bà trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn.

Từ những câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy, yêu thương chính là cho đi, chính là chia sẻ. Không phải những gì mình dư thừa, nhưng cả những gì cần thiết cho đời sống của mình. Sức mạnh của tình yêu chính là khả năng chấp nhận những hy sinh gian khổ cho người khác được hạnh phúc. Trong chiều hướng này, chúng ta nhận thấy tình yêu Thiên Chúa thực lớn lao biết bao, bởi chưng, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người chịu đựng mọi vất vả túng thiếu và sau cùng chịu chết một cách ô nhục trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu: Ta đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.


 

2. Giờ của Chúa

Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.

Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.

Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.

Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.

Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.

Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.


 

3. Giờ Chúa đến.

Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.

Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.

Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.

Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.

Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.

Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.


 

4. Giờ Con Người được tôn vinh

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.

Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.

Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)

Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”

Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?

Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.


 

5. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh - ViKiNi

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?

Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.

Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).

Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.

Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.

Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).

Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút  dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).

Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).

Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.

Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.

Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.

Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.


 

home Mục lục Lưu trữ