Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1377084

YÊU VÀ LÀM

Yêu và làm - Lm. Vũ Xuân Hạnh

“Tôi phải LÀM gì để được sống đời đời?”. Bài Tin Mừng bắt đầu bằng một lời hỏi thử Chúa Giêsu của một nhà thông luật, với một động từ chủ chốt cho chính lời hỏi ấy: “LÀM”. Cũng với động từ chủ chốt ấy, bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu trả lời xác định, và là một lời sai đi, một trách nhiệm cho một sứ mệnh của kẻ muốn sống đời đời: “Ông hãy đi và LÀM như vậy”.

“Làm” là một hoạt động không ngơi nghỉ, gắn kết với ta suốt cả đời. “Làm” có thể đưa ta đến đỉnh cao của danh vọng, của nhân phẩm. Nhưng cũng do “làm”, người ta có thể tự bán đứng chính mình như một thứ hàng xa xí phẩm cho những đổ vỡ lương tâm, cho bao nhiêu thất bại luân lý. Có khi người ta “làm” những điều tồi tệ không thể tưởng tượng, ngay cả thủ đoạn, nặng hơn, độc ác để mua lấy quyền cao chức cả, điều mà bên ngoài nhìn vào ai cũng cho rằng, họ là những người có địa vị, có giá trị cao, thực chất đó là những cọng rác thối không gì bằng. Chính vì vậy, “làm” có thể cho chúng ta cuộc sống đời đời. Nhưng cũng chính do “làm”, ta trở thành kẻ đáng lãnh án chết đời đời.

Vậy, “làm” để đạt sự sống đời đời là làm gì? Hay như một người đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Rất đơn giản, muốn sống đời đời, chỉ có mỗi một việc làm duy nhất: YÊU! Yêu Chúa và yêu người. Nói là đơn giản, nhưng để làm được những gì đã nói, là cả một khoảng cách rất lớn. Nhất là khoảng cách ấy thuộc về lãnh vực đức tin, lãnh vực của giáo huấn đến từ Thiên Chúa. Chỉ có một đời sống chìm trong đức tin mới có thể rút ngắn dần cả một khoảng cách lớn lao ấy. Chính trong ý nghĩa này mà thánh Augustinô mới dạy rằng: “Hãy yêu rồi làm”. Cũng chính vì phải yêu rồi hãy làm, chúng ta cần nhắc nhớ cho nhau rằng: Nếu phải làm, thì hãy làm trong tình yêu.

Yêu và Làm. Nói như thế vẫn chưa là cụ thể. Chúa Giêsu không dừng lại ở một giáo trình nào, dẫu lý thuyết mà Người dạy là điểm trọng tâm đi nữa. Người đã đưa ra một bằng chứng cụ thể để giải quyết thấu đáo cho vấn đề yêu - làm, vấn đề nền tảng của sự sống đời đời. Bài học cụ thể mà Chúa hướng dẫn là: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô...” (Lc 10, 30-37). Bài học ấy, câu chuyện người Samari nhân hậu ấy, là bằng chứng của tình yêu. Nếu hôm nay, bạn và tôi có được những nghĩa cử yêu thương như nghĩa cử lớn lao, thật cảm động của người Samari, bạn và tôi đã là người biết yêu và sống yêu: Yêu Chúa, yêu người. Vì yêu Chúa, đòi ta phải sống cho anh em. Và sống cho anh em là bằng chứng lòng ta yêu mến Chúa.

Sau khi đưa ví dụ về người Samari nhân hậu như một bằng chứng của lòng yêu thương, Chúa Giêsu kết luận bằng một lời ban mệnh lệnh: “Ông hãy đi và làm như vậy”. Có nghĩa là: “Ông hãy bắt chước người Samari nhân hậu sống đời sống bác ái yêu thương, để chính ông sẽ được sống đời đời”.

Nếu động từ “làm” ở câu đầu tiên, người thông luật đặt ra chỉ để hỏi thử Chúa Giêsu, “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”, thì ở câu cuối cùng, Chúa cũng trả lời bằng động từ “làm”: “Ông hãy đi và làm như vậy”, thì câu trả lời này, không chỉ là trả lời thật, nhưng còn là câu trả lời mở ra một sứ mạng cho những ai xưng mình là người Công giáo.

Nếu Chúa nhật tuần rồi, Giáo Hội cho chúng ta suy niệm bài Tin Mừng về việc Chúa chọn bảy mươi hai môn đệ và sai đi rao giảng Lời Chúa, thì sứ mạng sống và làm chứng cho Lời của Người, không thể không có đức bác ái, lòng mến yêu làm nền tảng. Vì không ai có thể hiểu nổi, một người chuyên cao rao Lời Chúa, dạy giáo lý rất hay cho anh chị em, giảng thuyết rất thuyết phục người nghe..., lại là người xơ cứng trước nỗi đau của anh chị em, không có một chút tình yêu nào đối với đồng loại, không bao giờ thực hiện một nghĩa cử yêu thương cho bất cứ anh chị em nào... Nếu lời nói là một trời, còn thái độ sống là một vực như thế, thì tất cả những gì mình nói và sống chỉ là phản chứng của Tin Mừng, chỉ là sự chống đối chính Lời của Thiên Chúa mà thôi.

Như vậy, đức ái chính bằng chứng cho biết một người có sống Tin Mừng của Chúa hay không. Nói cách khác, nhìn từ một góc cạnh nào đó, chính đời sống bác ái là lời rao giảng Tin Mừng hùng hồn nhất, thu hút nhất. Vì rao giảng Lời Chúa, không phải là trao cho người thụ nhận một mớ kiến thức, nhưng là trao cho họ một bằng chứng sống. Nhưng có bằng chứng nào đẹp cho bằng chính đời sống chứng tá của người rao giảng!

Xin cho bạn và tôi là những người Samari của thời đại này, biết “yêu” và biết “làm”, để tất cả chúng ta trở nên dấu chỉ hữu hiệu cho Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Kitô. Vậy chúng ta cùng thành tâm dâng lên Chúa một lời nguyện, ai đó đã từng cầu nguyện thế này:

Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim dược lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng, cần phải nối dòng tay lớn, xuyên qua các đại dương và lục địa, để vòng tay của người được nối với người. Sau hết, tất cả những vòng tay ấy nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

 

52. Đừng sợ! - Lm. Vũ Xuân Hạnh

Nỗi sợ là tên trùm khủng bố kinh khủng nhất vây quanh đời người, luôn rình rập chụp xuống tâm não con người. Có những nỗi sợ chính đáng. Nhưng cũng có những nỗi sợ chẳng chính đáng chút nào…

Hôm nay, kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô tâm cách đáng tội của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…” Tư tế là ai? Lêvi là ai? Những người đó tương đương những bậc “chân tu” của thời đại. Họ là tất cả Giám mục, linh mục của Chúa.

Tôi vẫn có thói quen tìm những lý lẽ để biện minh cho người bị “kết tội”, để dù có tội, tội của người ấy cũng sẽ được nhìn ở khía cạnh nhẹ nhất. Cứ coi như Chúa kết tội thái độ vô tâm của hàng giáo sĩ, thì tôi vẫn nhìn thấy bên trong sự vô tâm ấy là một nỗi sợ hãi. Tôi biện minh cho thái độ vô tâm ấy là do sợ hãi. Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ bị nhiễm ô uế. Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào xác chết, nhất là đụng chạm hoặc tiếp xúc người ngoại giáo, sẽ bị nhiễm ô uế. Tư tế và Lêvi chắc chắn thông suốt lề luật. Chính vì thế, họ hiểu rõ luật về nhiễm ô uế. Mà đã nhiễm ô uế, sẽ không được phép tham dự mọi nghi thức phụng vụ chung của cộng đoàn... Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết nữa. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, Tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua một bên mà đi”.

Ngày hôm nay, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như ai đó sợ không được xây nhà thờ chỉ vì cho phép phát tờ bướm bảo vệ sự sống. Tôi đã từng gặp vài anh chị em trong nhóm Bảo vệ sự sống ở Sài Gòn kể rằng, có những linh mục, khi được ngỏ lời để chỉ xin phát những “tờ rơi” quảng bá việc bảo vệ sự sống ở một góc nào đó thật khiêm tốn trong khuôn viên nhà thờ thôi, lại bị từ chối, thậm chí bị đuổi ngay lập tức. Lý do rất… vô lý rằng: “Sợ… không được xây nhà thờ”. Không lẽ việc xây nhà thờ lại quan trọng đến nỗi, công tác bảo vệ sự sống, là một trong những công tác hàng đầu, hơn thế, là nhiệm vụ thuộc thánh chức linh mục, lại phải nhường bước? Nỗi sợ nào chính đáng? Để nỗi sợ không đáng để sợ lên ngôi, trong trường hợp này, linh mục trở thành kẻ vô tâm hết sức, nếu không muốn nói là đã phạm tội.

Vì sao cấm phát tờ bướm nơi nhà thờ của mình lại phạm tội? Hội Thánh là Mẹ và là Thầy. Hơn nữa, Hội Thánh không hề sai lầm và sẽ không bao giờ sai lầm trong vấn đề bảo vệ luân lý, bảo vệ chân lý đức tin. Trong vai trò là Mẹ, là Thầy không thể sai lầm, Hội Thánh dạy nhiều lề luật luân lý và chân lý đức tin. Bảo vệ sự sống là luật luân lý hàng đầu, là vấn đề cấp bách, bởi đang gây sóng gió cho nền luân lý của Hội Thánh, làm nhức nhối lương tâm Hội Thánh, chúng ta không được phép làm ngơ. Hãy trung thành bảo vệ sự sống của mình cũng như của đồng loại. Không dám nói rằng, cấm phát tờ rơi là không bảo vệ sự sống. Vì nói như thế là hàm hồ. Người ta có thể bảo vệ sự sống bằng nhiều cách, chứ không phải chỉ phát tờ rơi. Có khi phát tờ rơi không hiệu quả bằng những sáng kiến khác để bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, nếu để len lỏi trong tâm hồn mình một sự sợ hãi đối với luật dân sự, đến nỗi xem nhẹ luật Hội Thánh là Mẹ và là Thầy không sai lầm của mình, thì chúng ta đã thật sự có lỗi. Tội là ở điểm này. Nếu đúng như thế, thì sự sợ hãi của ta hôm nay, có khác gì sự sợ hãi của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn của Chúa ngày xưa! Sợ một thứ luật thấp hèn để loại trừ luật cao trọng. Sợ một thứ luật của một nền thống trị để loại trừ luật nhân ái đối với con người. Sợ một thứ đụng chạm để loại trừ tình yêu. Sợ bị nghi kỵ mà làm thinh để cho việc giết người trở thành công khai, trở thành hợp thức hóa, được luật pháp không những cho phép mà hình như còn có vẻ khuyến khích. Sợ bị trả thù nơi thân xác mà sẵn sàng làm thinh và thỏa hiệp với tội lỗi. Sợ bị bắt bớ, bị kết tội mà làm thinh để chuốc lấy tội có sức hủy diệt tâm hồn mình… Cuối cùng, nặng hơn: sợ con người mà bỏ qua Thiên Chúa.

Đáng buồn hơn, người bị thế giới của sự sợ hãi giam hãm, thế giới của quyền lực tối tăm “bỏ tù” đến nỗi phải sợ hãi như thế, lại chính là linh mục của Chúa… Nghĩ lại mà hỗ thẹn, mà cảm thấy có lỗi với cha ông. Bởi chúng ta thua xa đức tin của cha ông chúng ta. Dù đức tin còn mới mẻ vô cùng vì mới được truyền giáo, nhưng suốt ba thế kỷ bắt đạo là ba thế kỷ hằn lên một niềm tin kiên vững, bất khuất, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi.

Cha Ông chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là một bằng chứng sống động cho lời Chúa Giêsu đã từng dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…” Cha Ông chúng ta đã chẳng sợ bất cứ điều gì. Các ngài bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi thế lực, dù những nguy hiểm, những thế lực ấy hung bạo đến đâu, tàn khốc đến đâu, dã man đến đâu đi nữa. Cha Ông chúng ta còn bất chấp cả sự chết, đã quyết một đời trung kiên theo Chúa, thì giây phút cuối cùng của mạng sống, sẽ hiến dâng trọn vẹn một đời cho Chúa. Cha Ông chúng ta đã trung thành cao rao danh Chúa không chỉ bằng lời, không chỉ bằng hành động, không chỉ bằng đời sống, nhưng bằng cả SỰ SỐNG của mình. Là người, như chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam, chắc không khỏi khiếp đãm trước cái chết, không khỏi sợ hãi trước những quyền lực thế gian đen tối, không khỏi sợ hãi trước những thói tàn nhẫn, bạo ngược... Nhưng vì lòng yêu mến Chúa, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bỏ lại nỗi sợ hãi phía sau mạng sống đời này của mình, để đi tới trong đời vĩnh cửu. Hiến dâng mạng sống vì lòng tin, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã đi đến tận cùng của lòng thần phục Thiên Chúa, “Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”

Hội Thánh của Chúa, Nước Chúa ở trần gian đã được trao lại cho mỗi Kitô hữu hôm nay gìn giữ và bảo vệ. Các Kitô hữu ấy chính là hàng hàng lớp lớp người đang nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa của đời mình. Các Kitô hữu ấy chính là mọi tầng lớp giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân của Chúa. Nước Chúa mà các Kitô hữu ra sức gìn giữ là gia tài, là kho báu vô giá mà họ phải bất chấp tất cả nỗi sợ hãi để ra sức gìn giữ đến cùng. Đúng hơn, đứng trước gia tài vĩnh cửu là Nước Chúa, đứng trước vấn đề của đức tin, các Kitô hữu chỉ giữ lại cho mình một nỗi sợ cuối cùng mà thôi, đó là LÒNG KÍNH SỢ CHÚA, SỢ TỘI LỖI LÀM MẤT LÒNG CHÚA.

Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị cướp như người khách bị cướp hại trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Họ là những bào thai không phương thế tự vệ, là những trẻ em ngỗ nghịch, thất học, là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, đến một cụ già bị bỏ quên trên góc phố… Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt lên trên nỗi sợ hãi của bạo quyền thế gian, vượt lên trên nỗi sợ hãi đối với lòng người đen tối, để quyết đi đến cùng con đường cứu chuộc chúng con. Lẽ nào, hôm nay, chúng con vẫn chưa thuộc bài học Chúa dạy “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”. Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa, và nhìn những tấm gương vượt thoát sợ hãi nơi anh chị em mà đi đến cùng con đường theo Chúa, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi đe dọa chúng con.

Lạy Chúa, người Samaritanô nhân hậu đã cúi xuống, ôm lấy nỗi đau của anh em mình. Nhân loại hôm nay vẫn còn đầy đau thương và nước mắt. Nhân loại vẫn cay đắng cơ hàn, đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương. Xin cho chúng con, những kẻ được thừa hưởng tình yêu thương vô bờ của Chúa, biết vượt lên mọi nỗi sợ hãi của trần thế, chỉ sợ mất lòng Chúa mà thôi. Từ đó giúp con can đảm trở thành người Samaritanô hôm nay, để sống vì và sống cho sự sống của anh chị em chúng con. Amen.

 

53. Suy niệm 1 của Gp Vĩnh Long

Anh chị em thân mến.

Người Việt Nam thường nêu lên câu:"ách giữa đàng mang vào cổ" để tránh né những việc mà họ cho là không mang lại ích lợi gì cho mình mà nhiều khi con mang đến những phiền phức không đâu.

Vừa qua trên một trang báo, tôi đọc thấy một câu chuyện thương tâm: một cô gái trẻ bị bảy chàng thanh niên hãm hiếp. Vì quá khiếp đảm, thần kinh bị suy sụp nặng. Tôi tự hỏi vì sao có tình trạng như thế. Cô ta đi lạc đường, tìm cách hỏi thăm đường về nhà, nhưng mọi người tưởng cô là người không tốt nên tìm cách xa lánh, không dám tiếp xúc. Trời tối dần, việc gì đến rồi cũng phải đến. Nếu những người khách qua đường quan tâm hơn một chút thì không việc gì xảy đến. Nếu họ dám để ra một chút ít thời giờ để lắng nghe, nếu họ chịu để cho con tim của mình biết rung động một chút, để đáp ứng nhu cầu của người khác. Nếu họ biết quên mình một chút mà hướng đến người khác, thì mọi sự sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho người thông luật một thí dụ điển hình để thực hành luật yêu thương. Ông ta thuộc lòng hơn 600 điều luật trong sách, ông ta tuân giữ thật chu đáo. Nhưng chỉ giữ trong lý thuyết, còn thực hành cụ thể thì: "ai là người thân cận của tôi". Ngài cho một câu chuyện và bảo: "ngươi hãy đi và làm như thế". Người thân cận để thực hành yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai, khi những người đó có nhu cầu cần thiết đến sự giúp đỡ, lòng thương xót, sự tha thứ. Yêu thương thì không còn chọn lựa, không còn phân biệt đẳng cấp sang hèn. Đó mới là điều mà Chúa Giêsu bảo: "Ngươi hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta, thuộc kinh thánh rất nhiều, thuộc giáo lý cũng rất nhiều, còn kinh đọc thì không biết bao nhiêu mà kể cho cùng. Nhưng để thực hành những gì mình biết, những gì mình gọi là đã giữ từ nhỏ thì thật là rắc rối. Chúng ta cũng không biết ai là người thân cận để thi hành lề luật. Chúng ta thuộc lòng mười điều răn, rồi còn tóm lại hai điều: kính mến Chúa và thương yêu người.

Nhưng thương yêu ai và bằng cách nào thì không bao giờ dám nghĩ đến. Vì chúng ta giữ đạo làm sao không thiệt hại bản thân, không mất mát những gì mình có, không đụng đến quyền lợi cá nhân, chúng ta cũng sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên không thể nào nhìn thấy được nhu cầu của người thân cận để thi hành luật yêu thương được. Nhiều lần chúng ta cũng hỏi như người thông luật trong bài phúc âm: "ai là người thân cận của tôi"? Chúa Giêsu không chỉ cho chúng một câu chuyện, nhưng rất nhiều và rất nhiều, Ngài cũng bảo chúng ta nhiều lần: "hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta để ra một phút suy tư, nhìn lại những gì mình đã làm gọi là giữ đạo, để xem mình đã sống đạo như thế nào?

Biết bao lần, chúng ta từ chối những lời van xin thống thiết của người khác khi họ cần đến chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta né tránh những việc mà đáng lẽ ra mình phải làm để cho người khác vơi đi phần nào khó khăn. Cũng rất nhiều lần chúng ta từ chối vì nhiều lý do: không phải việc của tôi, hay tôi không có thời gian, không có khả năng. Hay một câu nói hết sức không chút tình người "đừng dại mà vướng vào". Có phải đó là những lúc mà chúng ta sống đạo đó sao? Vậy thì lời Chúa Giêsu bảo chúng ta "hãy đi và làm như thế", chúng ta thực hành như thế nào? Không lẽ lời đó chỉ có giá trị cách đây 2000 còn bây giờ thì không giá trị gì cho chúng ta sao? Như vậy thì vô ích quá.

Nếu chúng ta biết nói một lời dịu dàng khi cần thiết, biết nở một nụ cười an ủi, biết mở rộng vòng tay để đón nhận ai cần đến, biết để cho con tim rung động trước những cảnh thương tâm và sẵn sàng hành động, thì lúc đó, Lời của Chúa Giêsu "hãy đi và làm như thế", đã thực sự được thể hiện cách chu đáo nơi bản thân của chúng ta rồi đó.

Xin Chúa cho mọi người biết thực hành yêu thương cách sống động trong cuộc sống đời thường.

 

54. Suy niệm 2 của Gp Vĩnh Long

BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG

1. “Thương người như thể thương thân”, hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”: những câu ca dao tục ngữ như thế nói lên sự thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống cho dù có thể có những khác biệt. Thế nhưng trong cuộc sống không thiếu những người chỉ biết quan tâm đến mình mà chẳng hề biết giúp đỡ người khác, dù trong lúc đó họ rất cần đến sự giúp đỡ của ta. Đó cũng là thái độ vô tâm của thầy tư tế và thầy trợ tế (Lêvi) đối với người bị nạn như trong dụ ngôn mà Chúa dùng để nói với người thông luật, thái độ này đối nghịch với thái độ đầy nhân ái của người bị xem là ngoại đạo Samaria.

2. Thầy tư tế và trợ tế trên lộ trình của mình đã thấy một nạn nhân bị kẻ cướp đánh nhừ tử, nhưng cả hai đều bỏ qua, như thể không hay biết gì! Các ông tránh qua một bên vì sợ những phiền luỵ có thể đến với mình, khi dừng chân lại giúp người bị nạn. Bởi biết đâu kẻ cướp còn đang rình rập gần xa đâu đó? Biết đâu nạn nhân nầy không có một xu dính túi, nếu dừng lại giúp đỡ vừa mất thời giờ, công sức và tiền bạc? Biết đâu khi giúp nạn nhân nầy sau đó còn phải mất giờ làm chứng khi nhà chức trách đến làm việc? Còn nếu nạn nhân nầy đã chết rồi, mà đụng chạm như thế thì bị mắc uế…! Có nhiều lý do, nhưng tự trung lại những bậc thầy nầy chỉ biết luật mến Chúa yêu người trên lý thuyết. Còn trong thực tế, các thầy chẳng quan tâm gì đến nỗi khốn khổ của người khác!

3. Ngược lại người Samaria, bị xem là kẻ ngoại lai, vô đạo lại cư xử rất nhân đạo “thương người như thể thương thân”. Đang trên lộ trình, có thể anh rất bận rộn, nhưng khi thấy người bị nạn giờ đây việc hàng đầu của anh là cứu người. Bất chấp người đó có đồng chủng, đồng đạo với mình hay không, điều này không cần thiết! Tin Mừng cho thấy anh tự tay chăm sóc nạn nhân, anh cũng không sợ hao tốn sức lực, tiền bạc, ô uế…gì cả. Anh hiểu rằng tình người và mạng người là trên hết. Không biết anh biết luật bác ái đến mức độ nào? Nhưng anh đã thực thi bác ái. Anh đã bén nhạy cảm thông trước nỗi đau của đồng loại. Anh đã giữ luật nội tâm.

Thầy tư tế và trợ tế xem ra không phạm một tội gì, nhưng lại bỏ qua việc phải làm, đó là giúp đỡ người bị nạn. Còn người Samaria thật đáng khen đã làm một điều khi nhận ra điều mình phải làm.

4. Chúa bảo người thông luật đang đối thoại với Chúa, cũng là bảo mọi người chúng ta cứ “làm như vậy” là sẽ được sống. Chúng ta lưu ý cụm từ “làm như vậy” được lập đi lập lại (x. Lc 10,28; 37), tức là muốn có được sự sống đời đời hãy thực thi, hãy làm việc bác ái đối với người khác chứ không chỉ nói suông. Trong Tin Mừng Matthêu chương 25 nói về việc phán xét chung, tiêu chuẩn hàng đầu được Chúa đưa ra đó là chúng ta có thực thi bác ái đối với tha nhân, hiện thân của Thiên Chúa, nhất là những người đau khổ, thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ của ta hay không? Có thể nói, những việc bác ái như là tấm vé thông hành để ta vào NướcTrời. Hãy biến lòng yêu thương thành những hành động cụ thể, bởi nếu chỉ nói suông hay chỉ có lòng yêu thương mà không thể hiện bằng việc làm thì đâu có lợi ích gì cho người mình yêu thương! Ta vẫn thường nghe nói:“Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài”. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào 2 bàn tay: hôm nay tôi đã làm gì cho Đức Giêsu và với Đức Giêsu?

5. Ngay cả về phương diện tự nhiên, sống trên đời này không ai mà không cần đến sự giúp đỡ người khác, không ai là một hòn đảo, chúng ta vẫn thường nghe nói “sỏi đá cũng cần có nhau”, vật vô tri vô giác mà còn phải nương tựa vào nhau. Hôm nay ta chưa gặp hoạn nạn, nhưng biết đâu một ngày rất gần chúng ta lại cần đến sự giúp đỡ của người khác, cho nên hãy tập tinh thần nhạy bén quan tâm, giúp đỡ người khác. Muốn vậy phải bỏ bớt cái tôi ích kỷ, cái vô tâm của mình.

Mỗi người hãy nhìn lại, là thành viên của gia đình, cộng đoàn, nhóm tông đồ… nhưng chúng ta có thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ nỗi niềm đau đớn tinh thần cũng như thể xác của người thân trong gia đình, của cộng đoàn, của nhóm mình hay không? Hay chúng ta vẫn vô tâm trước những đau khổ của người khác? Hay chúng ta thay vì xoa dịu lại còn gây thêm đau khổ cho người khác?

6. Hành động bác ái còn có tác dụng rất lớn trong việc truyền giáo. Tôi biết được nhiều người trở lại đạo vì họ cảm kích việc bác ái của người Công Giáo. Chẳng hạn như ở họ đạo mà tôi đang phục vụ, có nhiều người Công Giáo sống xa nhà thờ, xen lẫn với bà con lương dân, khi các gia đình Công Giáo hay các gia đình lương dân nầy có tang chế, những người giáo dân trong họ đạo không quản ngại xa xôi, hao tốn đến giúp về tinh thần lẫn vật chất… những việc làm như thế rất đánh động bà con lương dân và sau đó thường có những người xin học đạo. Như thế hành vi bác ái không những chứng tỏ chúng ta là môn đệ thật của Đức Giêsu, mà còn có thể qua đó giúp tha nhân đến với Chúa nữa.

7. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau. Thật vậy, yêu thương giúp đỡ người khác mà thiếu lòng yêu mến Chúa thì việc làm đó khó bền vững và thường dẫn tới tự cao tự mãn. Yêu thương giúp đỡ người khác như là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa, như thánh Giacôbê đã từng dạy rằng: đức tin không có việc làm là đức tin chết. Hay như mẹ Têrêsa đã nói: hoa trái của đức tin là bác ái, hoa trái của bác ái là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết quan tâm giúp đỡ nhau, như là giúp cho chính Chúa. Amen.

 

55. Suy niệm 3 của Gp Vĩnh Long

AI LÀ ANH EM?

“Thưa Thầy, nhưng ai là anh em thật của tôi.” (Lc 10, 29)

Trước năm 75, có một bài hát sinh hoạt lời như sau: “kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?” Đúng, kẻ thù không phải là con người; bài hát kể tiếp: kẻ thù chính là sự gian ác – vô luân – hờn câm… Bởi vì nếu kẻ thù là con người, thì khi ta giết họ, ta sẽ ở với ai đây. Sau năm 75, Có một câu người ta hay lấy làm châm ngôn: “Bạn bè, phải giúp đỡ; kẻ thù, phải tiêu diệt”. Câu này chắc chắn có nhiều người không nhận. đây chình là đề tài ta sẽ suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.

a. Một vài ghi chú để hiểu rõ bài dụ ngôn này:

* con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô: lối 20 cs, băng qua sa mạc gồ ghề khúc khuỷ, đến ngày hôm nay vẫn còn nhiều bọn cướp lộng hành

* Thày Tư tế: theo luật có bổn phận lo việc phụng tự lễ bái. Ông vừa làm phận sự xong và từ Giêrusalem trở về Giêricô. Hiện tại, ông không có gì ngăn trở để giúp đỡ nạn nhân này, nhưng ông né tránh vì nghĩ mình đã đủ bổn phận rồi.

* Thầy Lêvi: tuy Luật có định, ai đụng vào xác chết là bị ô uế trong ngày đó (Lv 11, 24); nhưng người bị cướp này vẫn chưa chết mà! Chúng ta cũng nên biết trong Đệ nhị Luật còn qui định (Đnl 22, 4): khi thấy bò hay lừa bị ngã, thì đỡ nó dậy… Bò hay lừa mà Luật còn định như thế, huống cho con người ta. Vậy mà Thầy Lêvi vẫn bỏ đi; đây là một thiếu sót lớn lắm…

* người Samaritanô: dân Samaria cũng gốc là người Do thái, nhưng tách lìa nhau từ năm 935 vì lý do Do thái bị chia làm hai nước nam và Bắc, thời vua Omri. Dân Samaria sống chung với dân ngoại nên bị lây nhiễm thói tục ngoại bang. Sau thời lưu đày, Nêhêmia đưa dân trở về quê hương và xây lại đền thờ Giêrusalem. Người Do thái khinh bỉ dân Samaria nên đã không cho họ góp phần vào việc xây lại đền thờ; vì thế, họ tức giận nên đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Samaria cũng tôn thờ một Chúa Giavê, nhưng chỉ tin vào 5 cuốn sách đầu của Cựu Ước mà thôi. Giữa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị kình chống nhau rất lớn. Chúa Kitô muốn dùng hình ảnh người Samaritanô nhân hậu không phải để đả kích người do thái, nhưng chắc chắn Chúa muốn nói lên tình yêu chân thật xuất phát từ trái tim, không phải từ nguồn gốc, địa vị hay chủng tộc…

b. Chúng ta hôm nay nghĩ gì đây? Người ta có thể nói: Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên các hình ảnh khá rõ nét: hình ảnh người Samaritanô chính là Đức Kitô. Con đường Giêricô: là con đường ở trần gian. Quán trọ: là Hội thánh Chúa Kitô. Dầu và rượu: hình ảnh phép Thánh Thể. Người bị cướp: con người, nhân loại chúng ta…

Đây là một trong những dụ ngôn rất đẹp, Luca muốn ghi lại để gởi cho người Do thái; (vì Tin Mừng của Luca viết ra là để dành cho người Do thái đọc) nói lên lòng mến Chúa yêu người đích thực hệ tại ở đâu, phải thể hiện ra sao, để có được sự sống vĩnh cửu. Như trên ta thấy, người Samaritanô nhân hậu, đã sẵn sàng cuối xuống ôm lấy đau thương của anh em mình, dù người đó là ai: Do thái hay Samria, người đó có yêu thương kính trọng mình hay không. Tấm lòng bao dung nhân ái của người Samaritanô cao cả quá! Ngay hôm nay, nhân loại hô hào yêu thương, quảng đại, tha thứ, xoá bỏ hận thù, nhưng thực sự được mấy người. Con người ngày nay không chỉ đói lương thực, mà còn đói cả tình thương nữa!

c. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện chân thành như sau: Lạy Chúa xin dạy cho con biết sống bao dung, quảng đại, tha thứ như người Samritanô nhân lành, để giảm đi cơn đói khát của nhân loại không phải chỉ cơm bánh hàng ngày, mà là những đau thương nước mắt, nhất là cơn đói tình thương. Amen.

56. Hãy về và làm như vậy – Giuse Vinc. Ngọc Biển

Trong xã hội hiện thời, chúng ta thấy tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng. Chuyện đâm thuê, chém mướn, bóc lột là những tội ác đang hoành hành trong thời đại của chúng ta hôm nay.

Đứng trước tình trạng đó, hơn bao giờ hết, tình yêu thương, vị tha, lòng bao dung là điều cần thiết để làm vơi đi những đau thương, mất mát.

Bài Tin Mừng hôm nay khơi gợi cho chúng ta về tình yêu hướng tha, lòng bao dung vô vị lợi đó.

1. Bối cảnh vấn đề

Câu chuyện được khởi đi bằng việc trao đổi giữa Đức Giêsu và một người thông luật: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Câu hỏi này nếu thoáng nghe, thoạt nghĩ, chúng ta sẽ dễ dàng kết luận rằng nhà thông luật này có vẻ khao khát đi tìm hạnh phúc viên mãn. Nhưng kỳ thực đây chỉ là câu hỏi nhằm thử Đức Giêsu để gài bẫy và hạ thấp uy tín của Ngài mà thôi.

Bởi vì trong luật Cựu Ước có tới 613 điều, trong đó có 365 điều cấm không được làm và có 248 điều buộc phải làm. Một bộ luật khổng lồ đã làm cho dân phải khốn đốn và không ai có thể chu toàn. Họ không biết khởi đầu từ đâu và kết thúc ở điều luật nào! Và, đâu là điều quan trọng nhất. Ngay trong nội bộ của những nhà thông luật cũng chưa đưa ra được điều luật nào là chính yếu. Đây chính là cơ hội để họ thử Đức Giêsu.

Tuy nhiên, qua câu hỏi của vị Luật Sĩ: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Thay vì trả lời trực tiếp cho ông ta biết phải làm sao, Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ, từ người thụ động sang thế thượng phong khi hỏi lại ông ta: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?". Qua câu hỏi mang tính chất vấn như vậy, Đức Giêsu đã tước được vũ khí từ đối phương, và như một mũi tên xoáy sâu vào tận căn của ông ta, buộc ông phải nói lên điều mà ông đã biết: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi (Đnl 6,5), và hãy thương mến anh em như chính mình" (Lv 19,8). Tuy nhiên, vì biết được lối sống giả hình của giới học giả Do Thái, họ luôn đeo ách nặng nề trên dân và buộc dân phải thi hành, còn chính họ thì lại không giữ (x. Mt 23, 27-28). Vì thế, Đức Giêsu đã bảo ông ta: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống".

Qua câu nói đó của Đức Giêsu, Ngài đã tố cáo lối sống cứng ngắc của họ; đồng thời bẻ gãy mưu mô của họ; mặt khác, Ngài cũng khơi gợi lên trong lòng họ hướng chiều về điều thiện và khuyên họ nên làm để được sự sống đời đời.

Khi bị thất thế hoàn toàn, nhà thông luật như muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Đức Giêsu dựa trên câu hỏi của ông để kể cho ông dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Kết thúc câu chuyện, lại một lần nữa Đức Giêsu hỏi ông ta: "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Đức Giêsu đã nói cho ông ta biết rằng: hãy về và làm như thế thì sẽ được cứu độ, chứ không phải chỉ kêu: 'Lạy Chúa! lạy Chúa!' là được vào Nước Trời cả đâu!

2. Sứ điệp Lời Chúa cho mỗi chúng ta

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.... Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Đây phải là điều răn quan trọng nhất và là thước đo đời sống đạo của mỗi chúng ta. Nếu yêu Chúa mà không yêu người thì chúng ta tự mâu thuẫn với chính mình. Chính thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: tin phải đi đôi với hành động, nếu tin mà không hành động thì đức tin chết. Quả thật, Chúa là Đấng chúng ta không thấy, còn con người thì ai cũng thấy trong cuộc sống. Mến Chúa mà lại không yêu người thì là kẻ nói dối. Quả thực, Thánh Gioan đã nói: "Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4:20). Và "Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4:21).

Nhưng điều quan trọng là ta yêu người như thế nào? Đây mới là điều quan trọng!

Người Luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu đâu là người thân cận của ông ta, và Ngài đã trả lời cho ông thấy người thân cận chính là anh em của mình, và phải yêu thương họ như chính mình. Qua câu nói đó, Ngài muốn chúng ta đi xa hơn để vượt ra khỏi ranh giới chủng tộc, quốc gia, giai cấp, địa vị để yêu thương bằng một tình yêu vị tha thay thế cho vị ngã. Người Samaritanô đã chạnh lòng thương đến người bị nạn, ông đã coi nỗi đau khổ của người bị nạn chính là nỗi đau của ông, nên ông cảm thấy trách nhiệm và cần phải giúp đỡ người bị nạn. Tình thương đã khiến cho ông gần tha nhân hơn là những rào cản tôn giáo, dân tộc.

Có vị linh mục nọ than phiền về lối sống đạo của giáo dân một cách xót xa, ngài nói: giáo dân ở đây họ thích rước sách linh đình. Cứ rước kiệu nhiều là họ mừng. Họ thích trống to, kèn lớn, ăn mặc đẹp để đi rước.... Nếu đội bên kia trống to, kèn lớn hơn thì bên này phải tìm mọi cách để của mình bằng hoặc to hơn bên họ. Nhưng xót xa thay, nhiều người trong giáo xứ bỏ lễ, nhiều năm không xưng tội. Giới trẻ lao vào con đường nghiện ngập, cờ bạc... Họ sẵn sàng đánh chửi lẫn nhau. Họ sống như những người không biết Chúa. Nếu có mời gọi họ đi học Giáo lý, Kinh Thánh thì họ bảo không có giờ, nhưng lại vùi đầu trong các sòng bạc cả ngày lẫn đêm.... Đời sống đạo như thế thì làm sao chống chọi được với những trào lưu tục hóa tinh vi trong xã hội hôm nay! Một thực trạng đáng lo ngại.

Thật vậy, nếu chỉ sống đạo cách hình thức hay hời hợt bên ngoài, chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng như những tư tế, trợ tế trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.

Như vậy, sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy yêu thương tha nhân với một tình yêu chân thành, quả cảm. Khi yêu thương như vậy, chúng ta đang đi vào và ở trong Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi vì "Thiên Chúa là Tình Yêu"; đồng thời mỗi chúng ta hãy vượt ra khỏi những thứ bề ngoài để sống một cuộc đời có Chúa thực sự. Được như thế, nỗi đau của người anh em cũng là của chính ta. Và khi giúp đỡ người anh em đang đau khổ là chúng ta đang góp phần làm cho thế giới này vơi đi phần nào sự bất công do những trào lưu tục hóa gây nên; mặt khác, qua họ, Thiên Chúa muốn gặp gỡ chính chúng ta và mời chúng ta sống hiệp thông với Ngài.

Ước gì, Lời Chúa nói: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: 'Lạy Chúa! lạy Chúa!' là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7:21) sẽ là lời cật vấn lương tâm của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu Chúa trên hết mọi sự; đồng thời cũng biết yêu người anh chị em chúng con cách chân thành và sẵn sang giúp đỡ họ như Chúa dạy qua bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ